Vì sao tỳ kheo sinh sống bằng nghề hèn hạ nhất là nghề khất thực – ăn xin
VÌ SAO TỲ KHEO SINH SỐNG BẰNG NGHỀ HÈN HẠ NHẤT LÀ NGHỀ KHẤT THỰC – ĂN XIN?
https://www.facebook.com/share/v/1JDhggvK6y/
–––––––––––––––
… — Này các Tỷ–kheo, đây là nghề sinh sống hèn hạ nhất, tức là nghề khất thực. Ðây là một lời nguyền rủa trong đời, này các Tỷ–kheo, khi nói: “Ông, kẻ khất thực với bát trên bàn tay, Ông đi chỗ này, chỗ kia và đấy là nghề sinh sống”.
Này các Tỷ–kheo, điều mà các thiện gia nam tử chấp nhận là những vị sống vì lý tưởng mục đích, duyên với lý tưởng mục đích;
không phải vì vua cưỡng ép,
không phải vì trộm cướp cưỡng ép,
không phải vì thiếu nợ,
không phải vì sợ hãi,
không phải vì không có nguồn sinh sống,
mà với ý nghĩ: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; bị chìm đắm trong đau khổ, bị bao vây bởi đau khổ. Rất có thể, sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này được tìm ra”.
Và như vậy, này các Tỷ–kheo, là thiện gia nam tử xuất gia. Vị ấy có tham dục đối với các dục vọng, tham ái cuồng nhiệt, tâm tư sân hận, tư niệm ô nhiễm, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự.
Ví như, này các Tỷ–kheo, một que củi từ chỗ hỏa táng, cả hai đầu đều cháy, ở giữa lại dính phân, không được dùng làm củi trong làng, không được dùng làm củi trong rừng. Dùng ví dụ ấy, Ta tả cho các Ông con người ấy, đã mất cả nhà và tài sản, lại không làm viên mãn mục đích của Sa–môn hạnh.
Này các Tỷ–kheo, có ba bất thiện tầm này: dục tầm, sân tầm, hại tầm. Và này các Tỷ–kheo, ba bất thiện tầm này được đoạn diệt không có dư tàn, đối với vị nào tâm đã khéo an trú vào bốn Niệm xứ hay tu tập vô tướng Thiền định.
Này các Tỷ–kheo, hãy khéo tu tập vô tướng Thiền định. Này các Tỷ–kheo, vô tướng Thiền định được tu tập, làm cho tăng thịnh, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn.
Này các Tỷ–kheo, có hai kiến này: hữu kiến, phi hữu kiến. Ở đây, này các Tỷ–kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Có cái gì ở trong đời, ta chấp trước mà không có phạm tội?”
Và vị ấy biết: “Không có cái gì ở trong đời ta chấp trước mà không có phạm tội”. Nếu ta chấp thủ sự chấp thủ sắc … thọ … tưởng … các hành … Nếu ta chấp thủ sự chấp thủ thức, do duyên chấp thủ, hữu trở thành của ta. Do duyên hữu, có sanh. Do sanh, có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Này các Tỷ–kheo, các Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
— Là vô thường, bạch Thế Tôn.
— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
— Là khổ, bạch Thế Tôn.
— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
— Thưa không, bạch Thế Tôn.
— Thọ … Tưởng … Hành … Thức …
Do vậy, này các Tỷ–kheo, bậc Thánh đệ tử
nhàm chán đối với sắc,
nhàm chán đối với thọ,
nhàm chán đối với tưởng,
nhàm chán đối với các hành,
nhàm chán đối với thức.
>>> Do nhàm chán, vị ấy ly tham.
>>> Do ly tham, vị ấy giải thoát.
>>> Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”.
Vị ấy biết rõ:
“Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Nguồn trích dẫn: Tương Ưng Bộ Kinh, Chương 22: Tương Ưng Uẩn, III: Phẩm Những Gì Ðược Ăn
–––––––––––––––
KHẤT THỰC CÓ NGHĨA LÀ XIN ĂN
–––––––––––––––
Khất thực có nghĩa là xin ăn. Cách nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho những đệ tử xuất gia. Đó là thực hành chính mạng thanh tịnh.
Đối với vị Tỳ kheo khất thực thì có năm điều lợi ích:
(1) tâm trí được rảnh rang, ít phiền não,
(2) không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai,
(3) đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn, vun bồi tâm kham nhẫn,
(4) đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự thâu trữ vật thực tiền của và
(5) có nhiều thì giờ tu hành.
Ngoài lợi ích cho riêng mình, vị Tỳ kheo khất thực còn mang lại ba điều lợi ích cho chúng sinh như:
(1) tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho họ,
(2) tạo cơ duyên giáo hoá chúng sinh, và
(3) Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải.
– Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
–––––––––––––––
Tham khảo thêm:
–––––––––––––––
“Trong thế gian tương đối, với bốn giai cấp có lợi dưỡng khác nhau, quan niệm khác nhau, có thói quen khác nhau về vật thực.
Ví như giai cấp bà–la–môn chủ trương dùng ngũ cốc, rau trái, hoa quả;
giai cấp sát–đế–lỵ chỉ thích dùng các loại thịt tươi sống, ngon bổ, rau trái quả thượng phẩm;
giai cấp vệ–xá – có khá đông người giàu có – họ thọ dụng các loại thịt hoặc rau trái cũng không thua gì quý tộc đâu.
Riêng giai cấp thủ–đà–la thì không có khả năng chọn lựa, cái gì rẻ, dễ kiếm thì dùng.
Còn chiên–đà–la thì thức ăn vật uống của họ thì chỉ để mà tồn tại!
Như Lai và đệ tử của Như Lai khi đi trì bình khất thực, phải giữ tâm bình đẳng trước mọi giai cấp, trước mọi nhà, không kể giàu nghèo, sang hèn. Và chính vật thực kiếm được trong chiếc bát – thường đủ đại biểu cho mọi giai cấp trong xã hội!
Ông nghĩ thế nào, này Jīvaka! Giaó pháp của Như Lai – vì muốn giữ tâm bình đẳng, thực hiện giáo pháp trung đạo, lấy giới luật làm thành trì, lấy tâm ô nhiễm hoặc không ô nhiễm làm thước đo, lấy mục đích giác ngộ, giải thoát làm cứu cánh – thì có nên đặt vấn đề chọn lựa hay không chọn lựa? (Hỏi tức là đã trả lời!)
Do vậy, Như Lai chỉ cho phép chư tỳ–khưu tùy nghi thọ dụng rau trái, hoa quả, ngũ cốc, tùy nghi thọ dụng ba loại thịt thanh tịnh:
Không thấy con vật bị giết,
không nghe tiếng con vật bị giết,
không nghi con vật bị giết ấy là do mình!
Như vậy, Như Lai không rơi vào cực đoan này, không rơi vào cực đoan kia, này Jīvaka Komārabhacca!”
Nguồn trích dẫn: Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt, Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh, DANH Y JĪVAKA KOMĀRABHACCA
–––––––––––––––
Ý NGHĨA CHỮ BHIKKHU (TỲ KHƯU)
–––––––––––––––
Ðức Phật thường gọi các tu sĩ là Bhikkhu (tỳ khưu).
Bhikkhu có nhiều nghĩa trong đó có một nghĩa là khất sĩ, là những người xin ăn. Nhưng xin ăn ở đây không có nghĩa như xin ăn thông thường. Lúc đi khất thực thầy tỳ khưu đứng trước nhà thí chủ và không hỏi xin gì cả. Người thí chủ có tâm thành tự nguyện đem thực phẩm cúng dường cho vị khất sĩ để tạo duyên lớnh. Như vậy Bhikkhu là vị khất sĩ cao thượng hay vị khất sĩ thánh thiện chứ không phải là người xin ăn thông thường.
Chữ Tỳ khưu còn có nghĩa là những người thấy rõ hiểm nguy trong sanh tử luân hồi. Căn cứ trên định nghĩa này thì không phải chỉ có nhà sư mới được gọi là Tỳ Khưu mà bất kỳ người cư sĩ nào thấy rõ hiểm nguy của sanh tử luân hồi đều được gọi là Tỳ khưu. Bởi vậy, trong khi giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ tôi thường dùng chữ Tỳ khưu mà không dùng chữ Nhà Sư; bởi vì nếu tôi dùng chữ Nhà Sư để dịch chữ Bhikkhu thì một số người sẽ nghĩ rằng kinh này chỉ dành riêng cho Nhà Sư mà thôi.
Tại sao Ðức Phật thường dùng chữ Bhikkhu trong các bài giảng của Ngài? Bởi vì Ðức Phật sống trong tu viện với các Thầy Tỳ Khưu nên mỗi khi dạy đạo, Ngài gọi các thầy là Bhikkhu. Dĩ nhiên lúc Ngài dạy đạo, trong chùa cũng có một số cư sĩ, nhưng phần lớn vẫn là các Tỳ Khưu tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài. Ðó là lý do tại sao Ðức Phật thường dùng chữ Bhikkhu. Có lúc Ðức Phật cũng dùng chữ Bhikkhave.”
Nguồn trích dẫn: Silananda Sayadaw – Giới Thiệu Đại Kinh Niệm Xứ.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB