Quán Pháp Tứ Niệm Xứ 4/15
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ 4/15
[Bốn Pháp Tứ Niệm Xứ]
– Shwe Hinthar Sayadaw
https://www.facebook.com/share/p/19s6AGEk92/
#pqtnx #myanmarsayadaw
#ShweHintharSayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Gemini pro 2. 5 này chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=3196638630486593&id=100004214615175&mibextid=ZbWKwL
–––––––––––––––
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna)
Phần (4/15)
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Lời Tán Dương và Lời Tuyên Hứa
* Namāmi satipaṭṭhānaṃ,
Varaṃ nibbānapāpakaṃ.
Sudesitaṃ sambuddhena,
Sokādisamatikkamaṃ.
* Tiṇṇaṃ kho nupassanānaṃ,
Attho mayā sudassito.
Dhammānupassanassāpi,
Dāni atthaṃ sudassissaṃ.
* Ta, người mang danh Paṇḍita, xin cúi đầu đảnh lễ bằng ý nghiệp nhiệt thành, tôn kính không ngừng nghỉ ngày đêm, với lòng trân quý vô biên và tâm hành trì, ghi nhớ Pháp Tứ Niệm Xứ, là pháp cao thượng, đưa đến Niết–bàn (Nibbāna), giúp vượt qua những ngọn lửa phiền não như sầu bi, đã được Đức Chánh Đẳng Giác (Sambuddha) khéo thuyết giảng.
* Ta, người mang danh Paṇḍita, đã trình bày rõ ràng ý nghĩa của ba pháp tùy quán (anupassanā), tức là Quán Thân (Kāyānupassanā), Quán Thọ (Vedanānupassanā), và Quán Tâm (Cittānupassanā). Nay, ta sẽ trình bày rõ ràng ý nghĩa của Quán Pháp (Dhammānupassanā) trong khả năng của mình.
(từ “pi” được dùng ở vị trí không phù hợp)
Bốn Pháp Tứ Niệm Xứ
–––––––––––––––
Đức Phật, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh như người có trí tuệ chậm lụt (mandapuggala), người có trí tuệ sắc bén (tikkhapuggala), người có khuynh hướng tu thiền định (samathayānika), người có khuynh hướng tu thiền minh sát (vipassanāyānika), v.v… đã thuyết giảng giáo pháp Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) theo bốn cách:
* Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna),
* Quán Thọ Niệm Xứ (Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna),
* Quán Tâm Niệm Xứ (Cittānupassanā Satipaṭṭhāna),
* Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna).
Mặc dù nói rằng Ngài thuyết giảng tùy theo trí tuệ thuần thục hay non nớt, thấp hay cao của mỗi người, nhưng sự thấu hiểu của mỗi người không giống nhau.
Dù nói rằng Ngài thuyết giảng Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna) phù hợp với người có trí tuệ chậm lụt (mandapuggala), nhưng đối với một số người, vì thân sắc (rūpakāya) này luôn được nhìn thấy, nên rất khó để thấy được bản chất vô thường (anicca) của nó bằng trí tuệ.
Đối với các pháp thọ (vedanā) và tâm (citta), vì chúng có bản chất sanh diệt nhanh chóng, dễ thấy dễ biết, nên họ ưa thích các pháp Quán Thọ Niệm Xứ (Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna) và Quán Tâm Niệm Xứ (Cittānupassanā Satipaṭṭhāna).
Đối với một số người có trí tuệ sắc bén (tikkhapuggala) có khả năng phân tích và quán chiếu thân sắc (rūpakāya), Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna) lại là một đề mục thiền (kammaṭṭhāna) thích hợp.
Một vị Tỳ–kheo thực hành và quán tưởng đề mục thiền về xương (aṭṭhikakammaṭṭhāna), khi đối mặt và nhìn thấy một người phụ nữ (mātugāma) trang điểm và ăn mặc lộng lẫy, thân sắc (rūpakāya) của người phụ nữ đó không còn hiện hữu như một hình thể vững chắc trong trí tuệ của vị trưởng lão, mà ngài thấy nó như một bộ xương bất tịnh (asubha).
Khi tiếp tục thực hành và quán tưởng, chính với đối tượng là bộ xương bất tịnh đó, ngài đã đoạn trừ các lậu hoặc (āsava), dập tắt các phiền não (kilesa) và chấm dứt vòng sanh tử.
Theo lời dạy trong Quán Thân Niệm Xứ: “Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati” (Hoặc trú, quán thân trên thân ở ngoại phần), ngài đã quán chiếu sắc pháp đúng như thật, tức là quán đối tượng bên ngoài là thân sắc bất tịnh dưới dạng một bộ xương.
Ngài không quán đó là ai, không quán theo khái niệm (paññatti) là một người phụ nữ. Do quán chiếu bằng trí tuệ để thấy được sự thật đúng như thật về bản chất biến hoại, không đẹp đẽ, nên tham ái (abhijjhā) không khởi sanh, ưu phiền (domanassa) cũng không khởi sanh đối với đối tượng đó.
Theo lời dạy “Anissito va viharati”, ngài đã thoát khỏi các chấp thủ về dục (kāmupādāna) và tà kiến (diṭṭhupādāna), và đạt được sự an lạc tịch tịnh (santisukha).
Do đó, với một trong bốn pháp tỉnh giác (sampajañña) phù hợp, mỗi người nên thực hành và phát triển một trong bốn pháp Tứ Niệm Xứ mà trí tuệ của mình dễ dàng thấy và hiểu được.
Khi thực hành một pháp Niệm xứ và thấy được chân pháp bằng trí tuệ, các pháp Niệm xứ khác cũng có thể được thấy và biết trong trí tuệ ở một mức độ nào đó.
Vì vậy, tôi muốn nhắc nhở rằng: “Ban đầu, hãy thực hành một pháp Niệm xứ nào mà trí tuệ của quý vị dễ dàng thâm nhập.”
Trong bốn pháp Tứ Niệm Xứ, tôi đã viết trong khả năng của mình về ý nghĩa của Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna), Quán Thọ Niệm Xứ (Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna) và Quán Tâm Niệm Xứ (Cittānupassanā Satipaṭṭhāna).
Bây giờ, tôi sẽ viết về giáo pháp Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna) để mọi người có thể hiểu và biết được trong khả năng có thể.
Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna) là pháp Niệm xứ chỉ liên quan đến sắc pháp.
Quán Thọ Niệm Xứ (Vedanānupassanā) và Quán Tâm Niệm Xứ (Cittānupassanā) là những pháp Niệm xứ chỉ liên quan đến danh pháp.
Sau khi thuyết giảng những pháp Niệm xứ đó, Đức Phật muốn thuyết giảng giáo pháp Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna) bao gồm cả danh và sắc, nên Ngài đã dạy: “Kathañca pana bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati” (Này các Tỳ–kheo, thế nào là Tỳ–kheo trú, quán pháp trên các pháp?), v.v…
Nói cách khác, Đức Phật đã thuyết giảng giáo pháp Quán Thân Niệm Xứ (Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna) để bao gồm sắc uẩn (rūpakkhandha).
Ngài thuyết giảng giáo pháp Quán Thọ Niệm Xứ (Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna) để bao gồm thọ uẩn (vedanākkhandha).
Ngài thuyết giảng giáo pháp Quán Tâm Niệm Xứ (Cittānupassanā Satipaṭṭhāna) để bao gồm thức uẩn (viññāṇakkhandha).
Bây giờ, để bao gồm cả tưởng uẩn (saññākkhandha), hành uẩn (saṅkhārakkhandha) và toàn bộ năm thủ uẩn (upādānakkhandha), Ngài đã thuyết giảng câu “Kathañca”, v.v… và đây được xem là sự nối kết.
–––––––––––––––
Nīvaraṇapabba – Phẩm Triền Cái
–––––––––––––––
Pháp Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna) có năm phẩm, năm phần:
* Nīvaraṇapabba – Phẩm Triền Cái,
* Khandhapabba – Phẩm Uẩn,
* Āyatanapabba – Phẩm Xứ,
* Bojjhaṅgapabba – Phẩm Giác Chi,
* Saccapabba – Phẩm Thánh Đế.
Trong năm phẩm, năm phần đó, Ngài thuyết giảng Phẩm Triền Cái (Nīvaraṇapabba) trước tiên.
Ngài đã thuyết giảng như thế nào?
“Kathañca bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati”
Này các Tỳ–kheo, vị Tỳ–kheo phải quán bằng trí tuệ như thế nào rằng các pháp chỉ là các pháp?
“Idha bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati pañcasu nīvaraṇesu”
Này các Tỳ–kheo, trong giáo pháp của Như Lai, vị Tỳ–kheo đối với năm pháp được gọi là triền cái (nīvaraṇa), là những pháp ngăn cản, che lấp các thiện pháp, hãy quán chiếu bằng trí tuệ để thấy đúng như thật rằng chúng là những triền cái, là những kẻ thù ngăn cản.
Đây là phần thuyết giảng về Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna) thuộc về các triền cái (nīvaraṇa), do đó, trước tiên cần phải biết về các triền cái.
Vì vậy, tôi sẽ trình bày về bản chất của các triền cái.
Các triền cái (nīvaraṇa) gồm có:
* Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa),
* Sân triền cái (Byāpādanīvaraṇa),
* Hôn trầm thụy miên triền cái (Thinamiddhanīvaraṇa),
* Trạo cử hối quá triền cái (Uddhaccakukkuccanīvaraṇa),
* Nghi triền cái (Vicikicchānīvaraṇa),
* Vô minh triền cái (Avijjānīvaraṇa).
Theo bản thể, có 6 loại. Theo pháp thể, có 8 loại.
Trong Phẩm Triền Cái của Quán Pháp này, Ngài thuyết giảng theo năm triền cái qua câu “Pañcasu nīvaraṇesu”.
Vô minh triền cái (Avijjānīvaraṇa) không được kể riêng theo bản thể, không được thuyết giảng riêng.
Lý do không thuyết giảng riêng về Vô minh triền cái không được giải thích rõ trong Chú giải (Aṭṭhakathā) và Phụ chú giải (Ṭīkā). Việc không giải thích rõ trong Chú giải và Phụ chú giải có thể được hiểu là vì nó không phải là một vấn đề khó khăn đến mức cần phải giải thích.
Tuy nhiên, đối với mọi người, điều đó chưa chắc đã dễ dàng, chưa chắc đã hiểu được. Do đó, tôi sẽ giải thích rõ:
* Pháp thể của Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa) là tham ái dục lạc (kāmataṇhā lobha), có bản chất là mong muốn, ưa thích các dục trần.
* Pháp thể của Sân triền cái (Byāpādanīvaraṇa) là sân (dosa), có bản chất là cứng rắn, thô bạo.
* Hôn trầm thụy miên triền cái (Thinamiddhanīvaraṇa),
* Trạo cử hối quá triền cái (Uddhaccakukkuccanīvaraṇa),
* Nghi triền cái (Vicikicchānīvaraṇa) không có pháp thể riêng biệt; tên gọi của chúng cũng chính là pháp thể của chúng.
Năm triền cái này là các pháp bất thiện.
Si (moha) tức là vô minh (avijjā) cũng là pháp bất thiện. Si là tâm sở chung cho tất cả các tâm bất thiện (sabbākusala–sādhāraṇa–cetasika), đồng sanh với mọi tâm bất thiện và tâm sở bất thiện.
Vì si (moha) luôn đi kèm với các pháp bất thiện như Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa) v.v… mỗi khi chúng sanh khởi, pháp si, tức là Vô minh triền cái (Avijjānīvaraṇa), đã bao hàm trong mỗi triền cái rồi. Do đó, Đức Phật đã không thuyết giảng riêng về Vô minh triền cái, mà chỉ thuyết giảng về năm triền cái.
Bản chất của triền cái (nīvaraṇa) là che lấp, ngăn cản, không cho các thiện pháp như thiền định (jhāna) v.v… sanh khởi.
Jhānādikaṃ nisedhenti, na taṃ denti pavattituṃ.
Cakkhuṃ vā āvarantīti, vuttā nīvaraṇānīti.
(Paramatthasarūpabhedanī)
Jhānādikaṃ, tâm thiện sanh khởi do năng lực của thiền định (jhāna) v.v…
Nisedhenti, chúng ngăn cản.
Taṃ, tâm thiện đó.
Pavattituṃ, để sanh khởi.
Na denti, chúng không cho phép.
Vā, hoặc là.
Cakkhuṃ, tuệ nhãn (paññācakkhu).
Āvaranti, chúng che lấp.
Iti, vì thế.
Nīvaraṇānīti, được gọi là các triền cái.
Vuttā, được nói đến.
Khi một người muốn làm các việc thiện như bố thí, giữ giới, tu thiền định, tu minh sát, nhưng tham ái (taṇhā lobha) lôi kéo họ về phía các đối tượng dục lạc, khiến cho việc thiện không thể thực hiện được, đó được gọi là Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa) đang che lấp.
Vào ngày Chủ nhật rảnh rỗi hoặc ngày trai giới (uposatha), dù có ý muốn đi chùa lễ Phật, thọ trì giới, nhưng vì muốn xem phim, Tham dục triền cái (kāmacchanda) đã ngăn cản, khiến cho phước báu lễ Phật, phước báu giữ giới không sanh khởi, không có được.
Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa) đã che lấp tuệ nhãn sanh khởi trong các việc thiện. Đức Phật dạy rằng bản chất này được gọi là triền cái.
Với ý định rằng hành giả phải thấy và biết được tham dục đang sanh khởi, Ngài đã thuyết giảng: “Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā kāmacchandaṃ atthi me ajjhattaṃ kāmacchandoti pajānāti”.
Khi một người đang có sân hận, Sân triền cái (Byāpādanīvaraṇa) đang tồn tại trong tâm của người đó. Vì Sân triền cái đang ngăn cản, che lấp, nên trong suốt thời gian Sân triền cái sanh khởi, các thiện pháp không thể sanh khởi trong tâm người đó.
Với ý định này, Đức Phật dạy rằng khi các Sân triền cái đang ngăn cản các thiện pháp sanh khởi trong tâm mình, hãy biết rằng chúng đang sanh khởi, và hãy loại bỏ các triền cái giống như kẻ thù đó.
Khi không có Sân triền cái, cũng hãy biết rằng nó không có, và hãy hoan hỷ loại bỏ nó trong một thời gian dài để phát triển các thiện pháp, này các Tỳ–kheo.
Ngài đã thuyết giảng:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ atthi me ajjhattaṃ byāpādanti pajānāti”, v.v…
Khi một hành giả đang thực hành một trong các pháp Tứ Niệm Xứ, sau khi học đề mục thiền (kammaṭṭhāna) từ vị thầy và đến một nơi yên tĩnh để thực hành, nếu sự lười biếng, buồn ngủ, hôn mê, dã dượi sanh khởi, khiến phải ra khỏi buổi ngồi thiền, đó chính là Hôn trầm thụy miên triền cái (Thinamiddhanīvaraṇa) đã ngăn cản, phá hoại, không cho tâm thiện minh sát (vipassanā) sanh khởi.
Bản chất này cũng là triền cái.
Hành giả phải chú ý và quán chiếu sự sanh khởi của hôn trầm thụy miên, thứ giống như kẻ thù.
Phải dùng trí tuệ tỉnh giác (sampajañña) để loại bỏ hôn trầm thụy miên đó với sự nhận biết: “Hôn trầm thụy miên triền cái đã xâm nhập và ngăn cản trong tâm ta.”
Để loại bỏ hôn trầm thụy miên, hành giả phải thay đổi oai nghi, tìm đến nơi có ánh sáng, hoặc đi kinh hành. Phải nhìn thấy hôn trầm thụy miên bằng trí tuệ.
Với ý định này, Ngài đã thuyết giảng:
“Idha bhikkhave bhikkhu, santaṃ vā ajjhattaṃ thinamiddhaṃ atthi me ajjhattaṃ thinamiddhanti pajānāti”.
Khi một hành giả đang thực hành một trong các pháp Tứ Niệm Xứ, nếu tâm không an trú trên đối tượng thiền mà lang thang đến nhiều đối tượng khác nhau, không yên tĩnh và phóng dật, đó là Trạo cử triền cái (Uddhaccanīvaraṇa).
Vào lúc đó, Trạo cử triền cái đã xâm nhập vào tâm hành giả, ngăn cản và cản trở công phu minh sát (vipassanā).
Lúc đó, hành giả phải quán bằng trí tuệ rằng: “Trạo cử triền cái đã xâm nhập vào tâm ta.” Đức Phật đã thuyết giảng: “Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ uddhaccanīvaraṇaṃ atthi me ajjhattaṃ uddhaccanīvaraṇanti pajānāti”.
Hành giả phải chú ý và quán chiếu lời dạy này, và loại bỏ sự trạo cử đó.
Điều cần lưu ý là:
Khi nói “tu tập” (bhāvanā), không phải pháp nào cũng cần tu tập.
Pháp nên tu tập thì tu tập, pháp nên loại bỏ thì loại bỏ.
Ví dụ, cần tu tập các pháp như từ bi quán (mettābhāvanā), bất tịnh quán (asubhabhāvanā).
Còn các pháp bất thiện như Tham dục triền cái (Kāmacchandanīvaraṇa) v.v… thì phải loại bỏ.
Tuy nhiên, việc nỗ lực loại bỏ các triền cái đó cũng có thể được gọi là “thực hành thiền”, “tu tập”.
Trong tâm của một người đang thực hành một trong các pháp Tứ Niệm Xứ, Hối quá triền cái (Kukkuccanīvaraṇa) cũng có thể sanh khởi.
Nó sanh khởi như thế nào? Ví dụ, khi quán chiếu và ghi nhận các pháp, và trí tuệ đã thấy và hiểu được ở một mức độ nào đó, hành giả nghĩ: “Ôi, trong những ngày tháng đã qua, ta đã không thực hành những pháp này! Thời gian đã trôi qua với những tâm bất thiện! Thật là vô ích! Ta đã không làm các việc thiện với chánh kiến (sammādiṭṭhi)! Thời gian đã bị lãng phí và trôi qua với những việc bất thiện!”… sự bất an trong lòng như vậy là bản chất của hối quá (kukkucca).
Về sự hối quá này, khi phân tích pháp Tứ Niệm Xứ, Ngài dạy:
Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ kukkuccaṃ, atthi me ajjhattaṃ kukkuccanti pajānāti
Này các Tỳ–kheo, trong giáo pháp của Như Lai, vị Tỳ–kheo đang tu tập pháp Tứ Niệm Xứ, nếu Hối quá triền cái (Kukkuccanīvaraṇa) sanh khởi trong nội tâm mình, vị ấy phải quán chiếu để biết rằng: “Hối quá đang sanh khởi trong tâm ta.”
Sau khi biết, phải quán chiếu sự sanh khởi của hối quá đó để loại bỏ nó, và tiếp tục tu tập pháp thiền đang thực hành.
(Để làm rõ bản chất của hối quá, nó được giải thích riêng với trạo cử.)
Trong tâm của một người đang thực hành một trong các pháp Tứ Niệm Xứ, sự hoài nghi có thể sanh khởi.
Đối với người không thực hành, xa rời chánh pháp, sự hoài nghi (vicikicchā) còn sanh khởi nhiều hơn.
Mục đích chính mà Đức Phật muốn thuyết giảng là sự sanh khởi của Nghi triền cái (Vicikicchānīvaraṇa) trong tâm của người đang thực hành pháp Tứ Niệm Xứ.
Sự hoài nghi rằng: “Đức Phật mà mình đang quy y có thật sự là một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha) với Toàn Giác Trí (Sabbaññutañāṇa) không?”,
“Pháp mà ta đang thực hành có thật sự là con đường đúng đắn, là chánh pháp dẫn đến Niết–bàn (Nibbāna) không?”,
“Chư Tăng, đệ tử của Đức Phật, có thật sự là Tăng đoàn đầy đủ các phẩm hạnh như Thiện Hạnh (Suppaṭipanna) v.v… không?”,
Hoài nghi về giới hạnh (sikkhā),
Hoài nghi về quá khứ của vòng luân hồi (saṃsāra),
Hoài nghi về tương lai của vòng luân hồi,
Hoài nghi về cả quá khứ và tương lai của vòng luân hồi,
Hoài nghi về pháp Duyên khởi (Paṭiccasamuppāda), sự sanh khởi theo nhân quả.
Khi có bất kỳ loại hoài nghi nào như vậy, đó là Nghi triền cái (Vicikicchānīvaraṇa).
Bản chất của nghi (vicikicchā) là không có khả năng quyết định, phân định đối tượng; nó lưỡng lự, phân vân, như thể “có phải vậy không?”.
Người có Nghi triền cái ngự trị, do bị triền cái đó ngăn cản, nên không thể quy y, kính ngưỡng Đức Phật một cách sâu sắc; không thể thực hành giáo pháp một cách chân thành, nhiệt tâm, không thể tin tưởng; không thể gần gũi Tăng đoàn.
Bất cứ ai, khi làm bất cứ việc gì, chỉ khi biết rõ lợi ích của việc mình sắp làm, với niềm tin vững chắc không còn hoài nghi, dốc toàn tâm toàn ý, nhiệt tình thực hiện, thì mới có thể đạt được kết quả tốt đẹp.
Với mong muốn hành giả nhìn thấy và loại bỏ Nghi triền cái, là pháp ngăn cản các thiện pháp và lợi ích, Đức Phật đã thuyết giảng:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ vicikicchaṃ, atthi me ajjhattaṃ vicikicchāti pajānāti”.
Này các Tỳ–kheo,
Trong giáo pháp của Như Lai, vị Tỳ–kheo phải nhìn thấy và biết rằng: “Trong nội tâm ta, Nghi triền cái (Vicikicchānīvaraṇa), tức là sự hoài nghi, thiếu niềm tin vào Phật, Pháp, Tăng v.v… đang ngự trị.”
Khi thấy được tình trạng Nghi triền cái, kẻ thù nội tâm này, đang xâm nhập và ngăn cản các thiện pháp, hành giả phải loại bỏ nó bằng sự quyết định (adhimokkha).
.
Shwe Hinthar Sayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Grok ngày 13.9.2025 này chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo.
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Quán Pháp (Dhammānupassanā)
Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Dhamma)
Phần 4/15
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc A–la–hán, bậc Chánh Đẳng Giác.
(Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa)
Lời Tuyên Thệ (Paṇāma và Paṭiññā):
Tôi kính lễ Tứ Niệm Xứ,
Pháp thù thắng dẫn đến Niết–bàn,
Được Đức Phật chỉ dạy,
Vượt qua mọi khổ đau và phiền não.
Ý nghĩa của ba pháp quán (Kāyānupassanā, Vedanānupassanā, Cittānupassanā),
Đã được tôi giải thích rõ ràng.
Giờ đây, tôi sẽ giải thích ý nghĩa
Của pháp quán Dhammānupassanā một cách chi tiết.
Dịch nghĩa Pali:
Namāmi satipaṭṭhānaṃ, varaṃ nibbānapāpakaṃ, sudesi taṃ sambuddhena, sokādi–sam–atikkamaṃ.
Namāmi: Tôi kính lễ.
Satipaṭṭhānaṃ: Tứ Niệm Xứ.
Varaṃ: Thù thắng, cao quý.
Nibbānapāpakaṃ: Dẫn đến Niết–bàn.
Sudesi taṃ sambuddhena: Được Đức Phật chỉ dạy rõ ràng.
Sokādi–sam–atikkamaṃ: Vượt qua mọi khổ đau và phiền não.
Tiṇṇaṃ khopassanānaṃ, attho mayā sudassito. Dhammānupassanassāpi, dāni atthaṃ sudassissaṃ.
Tiṇṇaṃ anupassanānaṃ: Của ba pháp quán (thân, thọ, tâm).
Attho mayā sudassito: Ý nghĩa đã được tôi giải thích rõ ràng.
Dhammānupassanassāpi: Cả pháp quán Dhammānupassanā.
Dāni atthaṃ sudassissaṃ: Giờ đây, tôi sẽ giải thích ý nghĩa rõ ràng.
(Pi saddā aṭṭhāna payutta: Các âm thanh được sử dụng phù hợp với ngữ cảnh.)
Tứ Niệm Xứ và Sự Giảng Dạy Tùy Thuộc Căn Tánh
Đức Thế Tôn, tùy theo căn tánh của từng cá nhân – từ những người có trí tuệ chậm (manda–puggala), trí tuệ sắc bén (tikkha–puggala), đến những người theo con đường thiền định (samatha–yānika) hay thiền quán (vipassanā–yānika) – đã giảng dạy Tứ Niệm Xứ theo bốn loại:
Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna: Quán thân trên thân.
Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna: Quán thọ trên thọ.
Cittānupassanā Satipaṭṭhāna: Quán tâm trên tâm.
Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna: Quán pháp trên pháp.
Mặc dù được giảng dạy phù hợp với các căn tánh khác nhau – từ trí tuệ chậm đến sắc bén, từ thấp đến cao – không phải ai cũng có trí tuệ phù hợp với mọi pháp quán. Chẳng hạn, đối với những người có trí tuệ chậm (manda–puggala), Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna thường được giảng dạy trước, nhưng vì thân vật lý (rūpa–kāya) dễ thấy trực tiếp, nên một số người khó dùng trí tuệ để nhận ra các đặc tính như vô thường (anicca) của thân.
Ngược lại, bản chất của thọ (vedanā–sabhāva) và tâm (citta–sabhāva) sinh khởi và diệt mất nhanh chóng, dễ nhận biết, nên nhiều người cảm thấy hứng thú với Vedanānupassanā và Cittānupassanā Satipaṭṭhāna.
Đối với những người có trí tuệ sắc bén (tikkha–puggala) có khả năng phân tích thân vật lý, Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna trở thành pháp môn thiền (kammaṭṭhāna) phù hợp.
Ví dụ, một vị Tỳ–kheo thực hành quán xương (aṭṭhika–kammaṭṭhāna) khi đối diện với một người phụ nữ (mātugāma) ăn mặc lộng lẫy, thay vì bị cuốn theo hình tướng, vị ấy quán thân ấy là bộ xương bất tịnh (a–subha). Nhờ quán sát này, các phiền não (āsava) được đoạn trừ, các cấu uế (kilesa) được dập tắt, và hành giả có thể chứng đắc Niết–bàn.
Theo pháp thoại Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna: “Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati” (Quán thân bên ngoài như là thân), hành giả quán thân bên ngoài (bahiddhā ārammaṇa) dưới dạng bất tịnh (a–subha), thấy thân đúng như bản chất thật của thân – không phải là người, không phải là hình tướng của ai, không phải là người phụ nữ qua khái niệm (paññatti). Thân được thấy là pháp dễ hoại diệt, không thanh tịnh, được nhận biết đúng như thật bằng trí tuệ. Nhờ đối tượng quán này, hành giả không sinh tham ái (abhijjhā) hay bất mãn (domanassa). Theo pháp thoại “anissito va viharati” (an trú không lệ thuộc), hành giả thoát khỏi các trói buộc của tham ái (kāma–pādāna) và tà kiến (diṭṭhi–pādāna), đạt được an lạc (santi–sukha).
Vì vậy, trong bốn loại chánh niệm tỉnh giác (sam–pajañña), tùy theo loại phù hợp với từng cá nhân, hành giả nên thực hành Satipaṭṭhāna phù hợp với trí tuệ của mình, chọn pháp dễ thấy và dễ phát triển.
Khi thực hành một Satipaṭṭhāna và thấy pháp bằng trí tuệ, các Satipaṭṭhāna khác cũng dần được nhận biết trong trí tuệ, tùy theo mức độ hiểu biết. Do đó, lời khuyên là: “Trước tiên, hãy thực hành Satipaṭṭhāna phù hợp với trí tuệ của mình.”
Ý Nghĩa của Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna
Ba pháp quán – Kāyānupassanā, Vedanānupassanā, và Cittānupassanā – đã được giải thích rõ ràng. Giờ đây, tôi sẽ giải thích ý nghĩa của Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna một cách chi tiết nhất có thể.
Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna liên quan đến thân vật lý (rūpa). Vedanānupassanā và Cittānupassanā Satipaṭṭhāna liên quan đến tâm thức (nāma).
Sau khi giảng ba pháp quán này, Đức Thế Tôn tiếp tục giảng Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna, liên quan đến cả thân (rūpa) và tâm (nāma), bằng câu: “Kathaṃ ca pana bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati” (Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo quán pháp trên các pháp như thế nào?).
Nói cách khác:
Kāyānupassanā Satipaṭṭhāna quán sát uẩn sắc (rūpa–kkhandha).
Vedanānupassanā Satipaṭṭhāna quán sát uẩn thọ (vedanā–kkhandha).
Cittānupassanā Satipaṭṭhāna quán sát uẩn thức (viññāṇa–kkhandha).
Bây giờ, để quán sát uẩn tưởng (saññā–kkhandha), uẩn hành (saṅkhāra–kkhandha) và toàn bộ năm uẩn chấp thủ (upādāna–kkhandha), Đức Thế Tôn thuyết “kathaṃ ca” v.v., theo cách liên kết (anu–sandhi).
Phần Nīvaraṇa (Nīvaraṇa–pabba)
Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna bao gồm năm phần:
Nīvaraṇa–pabba: Phần về năm triền cái.
Khandha–pabba: Phần về năm uẩn.
Āyatana–pabba: Phần về sáu căn và sáu trần.
Bojjhaṅga–pabba: Phần về bảy giác chi.
Sacca–pabba: Phần về bốn sự thật.
Trong năm phần này, trước hết sẽ giảng về Nīvaraṇa–pabba – phần năm triền cái.
Câu hỏi được đặt ra: “Kathaṃ ca bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati” (Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo quán pháp trên các pháp như thế nào?).
Câu trả lời: “Idha bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati pañcasu nīvaraṇesu” (Ở đây, Tỳ–kheo quán pháp trên các pháp, trong năm triền cái).
Trong Giáo pháp của Đức Thế Tôn, Tỳ–kheo quán sát năm triền cái – những pháp che lấp, ngăn trở các thiện pháp (kusala), là nguyên nhân khiến tâm bị che mờ, là những pháp thù địch được gọi là triền cái (nīvaraṇa). Hành giả nhận biết chúng đúng như thật bằng trí tuệ.
Vì đây là phần giảng về Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna liên quan đến triền cái, trước tiên cần hiểu rõ bản chất của triền cái (nīvaraṇa–sabhāva).
Năm triền cái bao gồm:
Kāmacchanda–nīvaraṇa: Tham ái dục lạc.
Byāpāda–nīvaraṇa: Sân hận.
Thīna–middha–nīvaraṇa: Hôn trầm và thụy miên.
Uddhacca–kukkucca–nīvaraṇa: Trạo cử và hối quá.
Vicikicchā–nīvaraṇa: Nghi ngờ.
Ngoài ra, còn có Avijjā–nīvaraṇa (vô minh), nhưng trong hình thức, Đức Thế Tôn chỉ liệt kê năm triền cái. Trong bản chất pháp (tamma–koya), có tám loại triền cái.
Trong phần Nīvaraṇa của Dhammānupassanā, Đức Thế Tôn giảng năm triền cái theo hình thức “pañcasu nīvaraṇesu”. Avijjā–nīvaraṇa (vô minh) không được liệt kê riêng trong hình thức, vì trong các Aṭṭhakathā và Ṭīkā, vô minh được xem là nền tảng của mọi triền cái, nên không cần tách riêng. Tuy nhiên, để dễ hiểu, tôi sẽ giải thích rõ:
Kāmacchanda–nīvaraṇa: Bản chất là tham ái (kāma–taṇhā) và lòng tham (lobha) đối với các dục lạc (kāma–guṇa).
Byāpāda–nīvaraṇa: Bản chất là sân hận (dosa) mạnh mẽ, gay gắt.
Thīna–middha–nīvaraṇa: Hôn trầm và thụy miên,
Uddhacca–kukkucca–nīvaraṇa: Trạo cử và hối quá,
Vicikicchā–nīvaraṇa: Nghi ngờ,
không có bản chất riêng, chính tên gọi là bản chất.
Năm triền cái này đều là các pháp bất thiện (akusala–sabhāva). Vô minh (avijjā), tức si (moha), cũng là bất thiện, là yếu tố tâm sở phổ biến trong mọi tâm bất thiện (akusala–citta) và tâm sở bất thiện (akusala–cetasika).
Vì các triền cái như Kāmacchanda v.v. là bất thiện, nên khi chúng sinh khởi, chúng đi kèm với si (moha). Vì si là bản chất của mọi triền cái, Đức Thế Tôn không tách riêng Avijjā–nīvaraṇa gọi là moha mà chỉ giảng năm triền cái theo hình thức.
Bản chất của triền cái là che lấp, ngăn trở, không cho các thiện pháp như thiền định (jhāna) sinh khởi.
Kinh văn Pali:
Jhānādi kaṃ ni sedhenti, na taṃ denti pavattituṃ. Cakkhuṃ vā āvaraṇtīti, vuttā nīvaraṇānīti.
(Paramattha–sarūpa–bhedanī)
Dịch nghĩa:
Jhānādi kaṃ: Các thiện tâm (kusala–citta) mạnh mẽ như thiền định (jhāna).
Ni sedhenti: Ngăn trở hoàn toàn.
Na taṃ denti pavattituṃ: Không cho phép sinh khởi.
Cakkhuṃ vā āvaraṇtīti: Che lấp mắt trí tuệ (paññā–cakkhu).
Vuttā nīvaraṇānīti: Được gọi là triền cái.
Đối với những người muốn thực hành bố thí (dāna), trì giới (sīla), thiền định (jhāna), hay thiền quán (vipassanā), trong dòng tâm thức của họ, tham ái dục lạc (kāma–taṇhā) lôi kéo tâm hướng đến các đối tượng dục lạc (kāma–guṇa), khiến các thiện pháp không thể sinh khởi. Đó là Kāmacchanda–nīvaraṇa che lấp.
Ví dụ, vào ngày nghỉ hoặc ngày trai giới, dù có ý định đi chùa, giữ giới, nhưng vì tham ái muốn xem phim, Kāmacchanda–nīvaraṇa ngăn che, khiến các thiện pháp như đi chùa, giữ giới không thể sinh khởi.
Kāmacchanda–nīvaraṇa che lấp mắt trí tuệ hướng đến thiện pháp. Đức Thế Tôn gọi các pháp này là triền cái và dạy:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā kāmacchandaṃ atthi me ajjhattaṃ kāmacchandoti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, tham ái dục lạc đang hiện hữu”).
Trong tâm người có sân hận (dosa–āghāta), Byāpāda–nīvaraṇa hiện hữu, ngăn che khiến các thiện pháp không sinh khởi trong thời gian sân hận tồn tại. Đức Thế Tôn dạy:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ atthi me ajjhattaṃ byāpādanti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, sân hận đang hiện hữu”). Hành giả cần đoạn trừ sân hận như kẻ thù, và khi đã đoạn trừ, hãy vui mừng thực hành nhiều thiện pháp.
Hành giả (yogī) thực hành Tứ Niệm Xứ, dù được thầy hướng dẫn kammaṭṭhāna và tinh tấn thiền định, nhưng nếu hôn trầm (thīna) và thụy miên (middha) sinh khởi, khiến phải rời chỗ thiền, đó là Thīna–middha–nīvaraṇa ngăn che thiện tâm vipassanā. Hành giả cần quán sát:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ thīna–middhaṃ atthi me ajjhattaṃ thīna–middhanti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, hôn trầm thụy miên đang hiện hữu”). Hành giả đoạn trừ bằng cách thay đổi oai nghi (iriyāpatha), tiếp xúc ánh sáng, đi kinh hành v.v.
Khi tâm hành giả không an trú trong đối tượng thiền (kammaṭṭhāna), chạy theo các đối tượng khác, tán loạn, đó là Uddhacca–nīvaraṇa. Hành giả cần quán sát:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ uddhaccaṃ atthi me ajjhattaṃ uddhaccanti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, trạo cử đang hiện hữu”), và đoạn trừ trạo cử.
Hành giả không thực hành mọi pháp, mà chỉ thực hành pháp cần thực hành, đoạn trừ pháp cần đoạn trừ. Ví dụ, phải thực hành thiền từ bi (mettā–bhāvanā) hoặc thiền bất tịnh (a–subha–bhāvanā), còn các triền cái như Kāmacchanda thì phải đoạn trừ.
Trong tâm hành giả tinh tấn, Kukkucca–nīvaraṇa (hối quá) thường sinh khởi, ví dụ: “Trước đây ta không thực hành pháp, chỉ sống với tâm bất thiện, thật vô ích, không thực hành thiện pháp đúng đắn, thời gian trôi qua hoài phí.” Tâm không an lạc, đó là Kukkucca. Hành giả quán sát:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ kukkuccaṃ atthi me ajjhattaṃ kukkuccanti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, hối quá đang hiện hữu”), và đoạn trừ để tiếp tục thiền.
Trong tâm người không thực hành pháp, hoặc hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ, Vicikicchā–nīvaraṇa (nghi ngờ) thường sinh khởi, như nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng, giới luật, vòng luân hồi, nhân quả v.v. Hành giả quán sát:
“Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ vicikicchaṃ atthi me ajjhattaṃ vicikicchāti pajānāti”
(Này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo biết: “Trong dòng tâm thức của ta, nghi ngờ đang hiện hữu”), và đoạn trừ nghi ngờ bằng niềm tin (adhimokkha).
Shwe Hinthar Sayādaw
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
