Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15

[Phần dẫn nhập – Bẩy lợi ích Tứ niệm xứ] #ShweHintharSayadaw

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

https://www.facebook.com/share/p/1ECqcwEz65/

#pqtnx #myanmarsayadaw

–––––––––––––––

Bản dịch Việt của Grok ngày 12.9.2025 này chưa được hiệu đính, có thể có nhiều sai sót, cần thận trọng trong khi tham khảo. Bản gốc tiếng Myanmar xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/1BznDgJR6F/

–––––––––––––––

Kinh Đại Niệm Xứ

Lời mở đầu

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.

Kinh Đại Niệm Xứ được Đức Phật thuyết giảng tại xứ Kuru, thuộc miền Trung Ấn. Trong những thời kỳ sau này, Ngài cũng sẽ thuyết giảng ở những nơi khác. Tuy nhiên, trước tiên, cần hiểu rằng kinh này được thuyết giảng tại xứ Kuru. Lý do là vì không có giáo pháp nào thoát khỏi bốn pháp Tứ Niệm Xứ.

Về việc thuyết giảng tại xứ Kuru, các vị luận sư trong A–tỳ–đàm đã nói như sau:

Các luận sư đã nói thế nào? Xứ Kuru có thời tiết tốt lành và chính xác. Vì thời tiết tốt lành và chính xác, con người ở đây được hỗ trợ để có sắc thân tốt đẹp. Nhờ vậy, nhìn chung, người dân xứ Kuru có trí tuệ sắc bén và xuất sắc. Đối với những người dân xứ Kuru có trí tuệ sắc bén, Đức Phật đã thuyết giảng kinh Đại Niệm Xứ, một giáo pháp sâu sắc, như các luận sư đã nói.

Trong dòng tương tục của con người, sắc thân bao gồm bốn loại sắc: sắc do nghiệp sinh, sắc do tâm sinh, sắc do thời tiết sinh, và sắc do thực phẩm sinh. Bốn loại sắc này đều quan trọng, mỗi loại có vai trò riêng. Tuy nhiên, có thể nói rằng sắc do thời tiết sinh đặc biệt quan trọng.

Theo các luận A–tỳ–đàm, “Utu là nguyên nhân cho sự sinh khởi và hoại diệt của các sắc do thời tiết sinh.”

Thời tiết không chỉ làm sinh khởi và hoại diệt sắc do thời tiết sinh, mà còn ảnh hưởng đến các sắc do nghiệp, tâm, và thực phẩm sinh, khiến chúng phát triển hoặc suy giảm. Khi thời tiết tốt, sắc do thời tiết sinh trở nên tốt đẹp, từ đó hỗ trợ sắc do nghiệp sinh trở nên mạnh mẽ hơn.

Sắc do tâm sinh cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Sắc do thực phẩm sinh cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Nhờ thời tiết tốt lành và chính xác, các loại cây trồng như lúa gạo, ngũ cốc phát triển tốt, đầy đủ chất dinh dưỡng và hương vị, trở thành cây trái tốt, hạt giống tốt, tươi tốt và phong phú.

Những người dân ăn uống và sử dụng các loại thực phẩm đầy đủ chất dinh dưỡng này sẽ có sức mạnh thể chất và trí tuệ đầy đủ. Vì thế, Đức Phật đã thuyết giảng kinh Đại Niệm Xứ cho những người dân xứ Kuru có trí tuệ sắc bén, bởi chỉ những người có trí tuệ sắc bén mới có thể nhanh chóng thấu hiểu giáo pháp này, như đã được nói.

Hơn nữa, từ thời xa xưa, xứ Kuru đã có thời tiết chính xác, mùa màng phát triển, lúa gạo và thực phẩm dồi dào. Nhờ đó, người dân xứ Kuru được đầy đủ các pháp Kuru, hay nói cách khác, các pháp đáng kính.

Pháp Kuru (hay pháp đáng kính) không phải là gì khác ngoài năm giới. Người dân xứ Kuru tuân thủ và thực hành năm giới này, nên được gọi là “pháp Kuru.” Vì con người tôn kính và thực hành những pháp này như cách họ mặc y phục quanh eo, luôn cẩn trọng và tuân thủ, nên cũng được gọi là “pháp đáng kính.”

Nhờ đầy đủ năm giới này, xứ Kuru có thời tiết tốt, mùa màng phong phú. Người dân ăn uống các loại cây trồng đầy đủ chất dinh dưỡng, nên sắc do thời tiết sinh và sắc do thực phẩm sinh trở nên tốt đẹp. Nhờ đó, sắc do nghiệp sinh và sắc do tâm sinh cũng được hỗ trợ, khiến họ khỏe mạnh, có trí tuệ sắc bén, và tâm hồn trong sáng, như được nói.

Bắt đầu từ vua Kora, người đứng đầu xứ Kuru, cho đến 11 người thiện lành, họ đều kính trọng và thực hành giới luật của mình. Những câu chuyện về sự nghi ngờ và cách họ thực hành được ghi lại trong một cuốn sách nhỏ có tên là “Chuyện Pháp Đáng Kính.” Những ai muốn tìm hiểu thêm có thể xem trong cuốn “Chuyện Pháp Đáng Kính” này.

Trong kinh này, điều muốn chỉ ra là thời tiết tốt, mùa màng phát triển, con người khỏe mạnh, và trí tuệ sắc bén ở xứ Kuru đều bắt nguồn từ pháp đáng kính, hay nói cách khác, pháp Kuru.

Giáo pháp không thiên vị khuôn mặt, không chọn lựa cá nhân, vùng đất, hay quốc gia. Ở bất kỳ cá nhân, vùng đất, hay quốc gia nào thực hành và tuân thủ giáo pháp, giáo pháp sẽ mang lại lợi ích và phước lành.

Ở xứ Kalinka, khi không thực hành pháp đáng kính, thời tiết khô hạn, mùa màng không phát triển, dẫn đến nạn đói. Sau khi nhận được năm giới, tức pháp Kuru hay pháp đáng kính, từ vua Kora và thực hành theo, thời tiết trở nên tốt lành, và họ được thịnh vượng. Đây là một ví dụ minh chứng.

Trong thời Đức Phật, một người nghèo khổ mắc bệnh da liễu tên là Supabuddha đã lắng nghe lời dạy của Đức Phật, thấu hiểu giáo pháp, và đạt được quả vị Tu–đà–hoàn. Điều này cho thấy giáo pháp không phân biệt giàu nghèo, như được thể hiện rõ ràng.

Vì vậy, những ai mong muốn bình an trong vòng luân hồi và thế giới này nên nỗ lực thực hành giới hạnh, bắt đầu từ năm giới, một cách tinh tấn, không quên lãng, để đạt được sự thanh tịnh và đầy đủ.

Trong thời Đức Phật, tại xứ Kuru, các vị tỳ–kheo, tỳ–kheo–ni, nam cư sĩ, và nữ cư sĩ được biết là đã nỗ lực thực hành pháp Tứ Niệm Xứ. Ngay cả những người làm việc thấp kém hay nô lệ cũng thường xuyên thảo luận và nói về pháp Tứ Niệm Xứ.

Khi đi lấy nước hay kéo nước từ giếng, họ cũng nói và thảo luận về pháp Tứ Niệm Xứ. Họ hỏi han lẫn nhau và không nói những lời vô ích, như được nói.

Nếu một người phụ nữ được hỏi: “Này con, con đã quán niệm pháp Tứ Niệm Xứ nào?” và cô ấy trả lời: “Con chưa quán niệm pháp Tứ Niệm Xứ nào cả,” thì người ta sẽ quở trách: “Này con, cuộc sống của con thật không tốt. Dù con còn sống, nhưng con chẳng khác gì người chết!” Họ sẽ nhắc nhở: “Đừng để bản thân thiếu pháp Tứ Niệm Xứ như vậy,” và hướng dẫn cô ấy về pháp Tứ Niệm Xứ phù hợp.

Nếu cô ấy nói: “Con đã quán niệm pháp Tứ Niệm Xứ này,” thì người phụ nữ đó sẽ được tán thán: “Lành thay!” và được chúc phúc: “Cuộc sống lâu dài của con là một cuộc sống tốt đẹp. Con đã thực sự đạt được kiếp sống con người. Đức Phật đã xuất hiện và thuyết giảng giáo pháp vì lợi ích của con.” Người dân xứ Kuru, nhìn chung, đều học hỏi và thực hành pháp Tứ Niệm Xứ như vậy, như được nói.

Một người huấn luyện các con vật như khỉ hay vẹt để nói và biểu diễn để kiếm sống đã vô tình bỏ quên một con vẹt tại một tu viện tỳ–kheo–ni. Các sa–di–ni chăm sóc con vẹt đó và đặt tên là Buddharakkhita.

Vị tỳ–kheo–ni trưởng lão dạy con vẹt Buddharakkhita tụng niệm “xương cốt, xương cốt.” Vì vậy, con vẹt Buddharakkhita vừa suy nghĩ trong tâm rằng mọi thân thể, kể cả thân nó, chỉ là đống xương, vừa tụng niệm điều đó bằng miệng.

Một buổi sáng, khi con vẹt Buddharakkhita đang sưởi nắng trên cột hàng rào, một con diều hâu bất ngờ lao xuống và cắp nó đi. Các sa–di–ni phát hiện ra, la hét và ném đá dọa, khiến con diều hâu thả con vẹt ra và bay đi.

Các sa–di–ni mang con vẹt Buddharakkhita đến trước vị tỳ–kheo–ni trưởng lão. Vị trưởng lão hỏi: “Này Buddharakkhita, khi bị con diều hâu cắp đi, con đã quán niệm như thế nào?” Con vẹt trả lời: “Thưa Tôn giả, khi bị con diều hâu cắp đi, con nghĩ: ‘Ôi, một đống xương bị một đống xương khác cắp đi. Không biết đống xương này sẽ bị ném xuống đâu?’” Nó nói rằng nó đã quán niệm pháp Tứ Niệm Xứ về đề mục xương cốt.

Ở xứ Kuru vào thời đó, không chỉ con người mà ngay cả một con vật như vẹt cũng thực hành pháp Tứ Niệm Xứ, như được nói.

Pháp Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã thuyết giảng nhiều giáo pháp khác nhau tùy theo căn cơ và trình độ của chúng sinh, nhưng không có giáo pháp nào tách rời pháp Tứ Niệm Xứ. Tất cả đều nằm trong bốn pháp Tứ Niệm Xứ.

Vì vậy, Đức Phật đã dạy: “Ekāyano ayam bhikkhave maggo = Con đường dẫn đến Niết Bàn chỉ có một, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.”

⒈ Từ “Ekāyano” khi được phân tích theo ngữ nghĩa có nghĩa là: “Được đi một mình, tách biệt khỏi bạn bè và đoàn thể, đến nơi tĩnh lặng, thực hành pháp Tứ Niệm Xứ trong sự tĩnh lặng của năm đối tượng giác quan.” Đó được gọi là Ekāyano.

⒉ Một cách giải thích khác: “Ayan’ti vā etena’ti ayano = Chỉ bằng con đường Tứ Niệm Xứ này, chúng sinh mới có thể thoát khỏi khổ đau luân hồi và đạt đến Niết Bàn.”

⒊ Một cách giải thích khác: “Eka ayano ekāyano = Chỉ có Đức Phật duy nhất đã đi trước trên con đường này đến Niết Bàn.” Vì thế, nó được gọi là Ekāyano.

Ngoài Đức Phật, các loài người, chư thiên, và Phạm thiên có đạt đến Niết Bàn qua con đường Tứ Niệm Xứ này không? Đúng vậy, các chúng sinh khác cũng đạt đến Niết Bàn qua con đường Tứ Niệm Xứ này. Tuy nhiên, Đức Phật là người tiên phong mở đường, đi trước, và tạo ra con đường Tứ Niệm Xứ này, nên theo nghĩa ẩn dụ, đây được gọi là con đường mà chỉ Đức Phật duy nhất đã đi.

⒋ Một cách giải thích khác: “Ayatīti vā ayano, ekasmiṃ ayano ekāyano = Chỉ trong giáo pháp của Đức Phật, con đường Tứ Niệm Xứ dẫn đến Niết Bàn mới tồn tại; nó không có trong các học thuyết khác.”

Thực tế, pháp Tứ Niệm Xứ được gọi là “Ekāyano” vì nó là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn. Dù trước đó có thực hành các pháp thiền quán khác nhau, cuối cùng, chỉ có pháp Tứ Niệm Xứ mới dẫn đến Niết Bàn, như được nói.

–––––––––––––––

⒈ Sự Thanh Tịnh Tâm

Đức Phật đã thuyết giảng pháp Tứ Niệm Xứ để mang lại những lợi ích gì? Vì muốn chúng sinh đạt được con đường dẫn đến Niết Bàn, là con đường đúng đắn duy nhất, Đức Phật đã dạy: “Ekāyano ayam bhikkhave maggo,” và tiếp tục dạy: “Sattānaṃ visuddhiāya.”

Chúng sinh có tâm bị nhiễm ô bởi các phiền não như tham ái, cùng với các nguyên nhân nhiễm ô như tham lam không đồng đều. Để khiến tâm chúng sinh thoát khỏi những nhiễm ô này, trở nên thanh tịnh và phát sinh các tâm thiện, Đức Phật đã thuyết giảng pháp Tứ Niệm Xứ, như được nói.

Tại sao Đức Phật thuyết giảng để tâm chúng sinh thoát khỏi các phiền não nhiễm ô và trở nên thanh tịnh? Nếu tính ngược lại từ thế giới này, qua hơn một trăm ngàn thế giới, từ các Đức Phật như Tanhankara, Medhankara, Saranankara, Dipankara, cho đến Đức Phật Gotama, cùng với vô số vị Độc Giác Phật và các vị thánh đệ tử, tất cả đều đã loại bỏ các phiền não nhiễm ô trong tâm, đạt được tâm thanh tịnh, và nhập vào Niết Bàn trong sáng, an lạc.

Vì thế, Đức Phật, với lòng từ bi, đã thuyết giảng pháp Tứ Niệm Xứ để chúng sinh đạt được sự thanh tịnh tâm, như được nói.

Trong dòng tương tục của chúng sinh, có hai phần: sắc thân và danh pháp. Trong hai phần này, danh pháp là chính yếu. Trong bốn danh uẩn, tâm (thức uẩn) là chính yếu.

Trong bốn danh uẩn, tâm là yếu tố dẫn đầu, tiên phong. Chỉ khi tâm khởi sinh, các tâm sở liên quan mới khởi sinh. Khi tâm chấm dứt, các tâm sở cũng chấm dứt. Khi tâm thanh tịnh, các tâm sở cũng thanh tịnh. Vì vậy, tâm là yếu tố chính yếu, dẫn đầu trong các danh pháp. Do đó, Đức Phật thuyết giảng để tâm được thanh tịnh.

Đức Phật không dạy rằng sự thanh tịnh của sắc uẩn khiến thoát khỏi phiền não. Chỉ khi tâm thanh tịnh, sự thanh tịnh thực sự mới đạt được, như được dạy:

“Bhikkhave, cittaṃ saṃkilesā sattā saṃkilissanti, cittavodānā visujjhanti.”

“Này các tỳ–kheo, khi tâm nhiễm ô, chúng sinh nhiễm ô; khi tâm thanh tịnh, chúng sinh thanh tịnh” – như Đức Phật đã dạy.

Sự thanh tịnh của tâm chỉ đạt được thông qua pháp Tứ Niệm Xứ, hay nói cách khác, con đường Tứ Niệm Xứ, như được dạy.

Những hành giả thực hành pháp Tứ Niệm Xứ sẽ có tâm thanh tịnh, trong sáng, thoát khỏi các phiền não nhiễm ô như tham ái.

–––––––––––––––

⒉ & ⒊ Không chỉ đạt được lợi ích này, họ còn nhận được những lợi ích khác, như Đức Phật muốn chỉ ra khi tiếp tục dạy:

“Dukkhādomānassānaṃ atthaṅgamāya.”

Để chấm dứt các cảm thọ khổ đau và phiền muộn trong dòng tương tục của chúng sinh, Đức Phật đã thuyết giảng pháp Tứ Niệm Xứ, như được nói.

Trong lời dạy này:

• Khổ (dukkha): Là cảm thọ khổ đau khởi sinh dựa vào sắc thân.

• Phiền muộn (domanassa): Là cảm thọ phiền muộn khởi sinh dựa vào tâm.

Chúng được gọi là khổ đau thân (kāyika dukkha) và khổ đau tâm (cetasika dukkha).

Pháp Tứ Niệm Xứ mang lại lợi ích là thoát khỏi khổ đau và phiền muộn, khiến chúng chấm dứt, như được nói.

Bình An Khỏi Khổ Đau Thân Thể

Tỳ–kheo Tissa, người tự làm gãy chân mình bằng đá, chịu đựng cảm thọ khổ đau thân thể. Bằng cách không chú ý đến cảm thọ này và thực hành thiền Tứ Niệm Xứ một cách tinh tấn, ông đã đạt quả A–la–hán, chấm dứt khổ đau và nhập Niết Bàn.

Tôn Sư Shwe Hinthar

Giáo Pháp Đức Phật

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 12/9/2025