Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15
[Tiến Trình Sanh Khởi Thất Giác Chi và Phương Pháp Tu Tập]
– Shwe Hinthar Sayadaw
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
https://www.facebook.com/share/p/1BbdLc4XEA/
#pqtnx #myanmarsayadaw #ShweHintharSayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Deapseek ngày 23.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar trên fb U Hla Myint xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/1BsKa8i9QY/
–––––––––––––––
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ Phần 12/15
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
◾ Tiến Trình Sanh Khởi và Phương Pháp Tu Tập
Điều muốn trình bày tiếp theo liên quan đến các Giác chi (Bojjhaṅga) là: Nhằm giúp hành giả có thể tu tập các Giác chi, trước tiên hãy trình bày về tiến trình sanh khởi liên tục và phương pháp tu tập bảy Giác chi, cùng với phước báu của việc thân cận bậc Thiện tri thức (Sappurisūpanissaya maṅgala).
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Ye te bhikkhave bhikkhū sīlasampannā samādhisampannā ñāṇasampannā vimuttisampannā vimuttiñāṇadassanasampannā, dassanampi yaṃ bhikkhave tesāṃ bhikkhūnaṃ bahupakāraṃ vadāmi…” (Này các Tỳ–kheo, những vị Tỳ–kheo nào đầy đủ Giới, đầy đủ Định, đầy đủ Tuệ, đầy đủ Giải thoát, đầy đủ Tri kiến về Giải thoát; này các Tỳ–kheo, Ta nói rằng việc thấy các vị Tỳ–kheo ấy cũng có nhiều lợi ích).
Ngài dạy rằng việc được chiêm ngưỡng các vị Tỳ–kheo đầy đủ các đức tính như vậy là vô cùng phước báu.
Đối với những vị đầy đủ các đức tính ấy, việc:
· Nghe danh tiếng của các Ngài,
· Được thân cận các Ngài,
· Được nghe Pháp từ các Ngài,
· Suy niệm về ân đức của các Ngài,
· Và xuất gia theo gương các Ngài, tất cả đều là những việc có phước báu và lợi ích to lớn.
Tại sao Ngài lại dạy như vậy?
1. Sự Sanh Khởi của Niệm Giác Chi (Satisambojjhaṅga)
Nhờ được nghe Pháp từ các vị Tỳ–kheo đầy đủ các đức tính như Giới, v.v…, mà thân và tâm trở nên an tịnh nhờ hai loại an tịnh là Kāyapassaddhi (Thân khinh an) và Cittapassaddhi (Tâm khinh an). Khi an trú trong sự an tịnh như vậy, vị ấy suy niệm và quán chiếu về các Pháp của bậc Thánh. Do sự suy niệm và quán chiếu về Giáo Pháp, vào lúc đó, vị ấy tu tập Niệm Giác Chi. Vị ấy làm cho Niệm Giác Chi tăng trưởng. Do sự tu tập này, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Niệm Giác Chi.
2. Sự Sanh Khởi của Trạch Pháp Giác Chi (Dhammavicayasambojjhaṅga)
Do đầy đủ Niệm Giác Chi, vị Tỳ–kheo có chánh niệm dùng trí tuệ để phân tích, quán sát các pháp: thiện pháp, bất thiện pháp, pháp có tội, pháp không tội, pháp hạ liệt, pháp cao thượng, pháp ô nhiễm và pháp thanh tịnh. Khi đang quán sát như vậy, vị ấy tu tập Trạch Pháp Giác Chi. Vị ấy làm cho nó tăng trưởng. Nhờ vậy, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Trạch Pháp Giác Chi.
3. Sự Sanh Khởi của Tinh Tấn Giác Chi (Vīriyasambojjhaṅga)
Do đầy đủ Trạch Pháp Giác Chi, vị Tỳ–kheo có sự nỗ lực tinh tấn không thối chuyển trong các Pháp của bậc Sa–môn. Do sự tinh tấn này, vị ấy tu tập Tinh Tấn Giác Chi. Nhờ sự tu tập, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Tinh Tấn Giác Chi.
4. Sự Sanh Khởi của Hỷ Giác Chi (Pītisambojjhaṅga)
Khi vị Tỳ–kheo đầy đủ Tinh Tấn Giác Chi đã được tu tập, một loại hỷ (pīti) không liên hệ đến ngũ dục (āmisavippayutta) sẽ khởi sanh. Hỷ này chính là Hỷ Giác Chi. Tiếp tục tu tập, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Hỷ Giác Chi.
5. Sự Sanh Khởi của Khinh An Giác Chi (Passaddhisambojjhaṅga)
Khi vị Tỳ–kheo đầy đủ Hỷ Giác Chi, toàn bộ thân (nhóm danh uẩn gồm Thọ, Tưởng, Hành) trở nên an tịnh (Thân khinh an – Kāyapassaddhi). Tâm (Thức uẩn) cũng trở nên an tịnh (Tâm khinh an – Cittapassaddhi). Khi có sự an tịnh của thân và tâm, vị ấy tu tập Khinh An Giác Chi. Tiếp tục tu tập, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Khinh An Giác Chi.
6. Sự Sanh Khởi của Định Giác Chi (Samādhisambojjhaṅga)
Do đầy đủ Khinh An Giác Chi, vị Tỳ–kheo có sự an tịnh, tâm trở nên định tĩnh. Vào lúc đó, vị ấy tu tập Định Giác Chi. Tiếp tục tu tập, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Định Giác Chi.
7. Sự Sanh Khởi của Xả Giác Chi (Upekkhāsambojjhaṅga)
Do đầy đủ Định Giác Chi, vị Tỳ–kheo có tâm an trú vững chắc trên đề mục thiền định. Khi ấy, sự xả (upekkhā) đối với các pháp hành (saṅkhāra) một cách bình đẳng, không thiên lệch, khởi sanh. Vào lúc đó, vị ấy tu tập Xả Giác Chi. Tiếp tục tu tập, vị ấy đạt đến sự viên mãn của Xả Giác Chi.
Với mục đích chỉ ra sự viên mãn của việc tu tập, Ngài dạy: “Anissito viharati” – Vị ấy sống không nương tựa (vào tham ái và tà kiến); và “Na ca kiñci loke upādiyati” – Vị ấy không chấp thủ bất cứ thứ gì trên đời, an trú trong xả.
◾ Bảy Lợi Ích
Những người tu tập bảy Giác chi cho đến khi viên mãn sẽ đạt được bảy quả báo:
1. Đạt quả A–la–hán (Arahatta) ngay trong đời hiện tại, trước khi chết.
2. Nếu không đạt trong hiện tại, sẽ đạt vào lúc lâm chung.
3. Nếu không đạt vào lúc lâm chung, do đã đoạn trừ năm Hạ phần Kiết sử (Orambhāgiya saṃyojana), vị ấy sẽ nhập Niết–bàn trong thời kỳ trung gian (Antarāparinibbāyī) (Sẽ giải thích riêng về hạng này sau).
4. Nếu không thuộc hạng Antarāparinibbāyī, vị ấy nhập Niết–bàn dưới hình thức Upahaccaparinibbāyī (sau khi sanh lên cõi Tịnh Cư, với sự nỗ lực tinh tấn).
5. Nếu không thuộc hạng Upahaccaparinibbāyī, vị ấy nhập Niết–bàn dưới hình thức Asaṅkhāraparinibbāyī (một cách không cần gắng sức nhiều).
6. Nếu không thuộc hạng Asaṅkhāraparinibbāyī, vị ấy nhập Niết–bàn dưới hình thức Sasaṅkhāraparinibbāyī (một cách có gắng sức).
7. Nếu không nhập Niết–bàn dưới hình thức Sasaṅkhāraparinibbāyī, do đã đoạn trừ năm Hạ phần Kiết sử, vị ấy trở thành bậc Udḍhaṃsoto Akaniṭṭhagāmī (dòng chảy ngược lên, đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh/Akaniṭṭha).
◾ Giác Chi và Hạng Người
Như vậy, người tu tập các Giác Chi sẽ đạt một trong bảy kết quả kể trên. Thực chất, trong bảy kết quả, thì việc đạt được một kết quả nào đó đều dẫn đến sự nhập Diệt.
Bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmī) tu tập bảy Giác Chi, khi sanh về cõi Tịnh Cư (Suddhāvāsa), tùy theo từng cõi mà thọ mạng khác nhau, và sẽ nhập Niết–bàn trước, trong, hoặc sau thời gian giữa của tuổi thọ ở cõi ấy. Có ba hạng người:
1. Có vị sanh về cõi Vô Phiền (Avihā), có thọ mạng 1.000 kiếp, và nhập Niết–bàn ngay trong ngày đầu tiên sau khi sanh. Nếu không, vị ấy nhập Niết–bàn sau 100 kiếp đầu tiên. Vị này là bậc Antarāparinibbāyī thứ nhất.
2. Có vị không thể nhập Niết–bàn sau 100 kiếp, mà nhập Niết–bàn sau 200 kiếp. Vị này là bậc Antarāparinibbāyī thứ hai.
3. Có vị không thể nhập Niết–bàn sau 200 kiếp, mà nhập Niết–bàn sau 400 kiếp. Vị này là bậc Antarāparinibbāyī thứ ba. Như vậy, có 3 hạng Antarāparinibbāyī.
4. Vị đắc quả A–la–hán sau khi hơn 500 kiếp trôi qua thì gọi là Upahaccaparinibbāyī. Ở các cõi Tịnh Cư khác như Atappā, Sudassā, Sudassī, Akaniṭṭha, cũng có ba hạng Antarāparinibbāyī cho mỗi cõi, và một hạng Upahaccaparinibbāyī cho mỗi cõi.
5. Sasaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Bất Lai ở bất kỳ cõi Tịnh Cư nào, nếu đắc quả A–la–hán với sự nỗ lực mạnh mẽ (Sasaṅkhāra), thì gọi là Sasaṅkhāraparinibbāyī.
6. Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Bất Lai đắc quả A–la–hán một cách dễ dàng, ít nỗ lực (Asaṅkhāra), thì gọi là Asaṅkhāraparinibbāyī.
7. Udḍhaṃsoto Akaniṭṭhagāmī: Bậc Bất Lai sanh ở các cõi Tịnh Cư như Avihā, v.v…, sau khi trải qua hết thọ mạng của cõi ấy, lại sanh lên cõi Tịnh Cư cao hơn, và cuối cùng đạt đến cõi trời Sắc Cứu Cánh (Akaniṭṭha) thì mới nhập Niết–bàn. Vị này gọi là Udḍhaṃsoto Akaniṭṭhagāmī.
◾ 48 Hạng Bất Lai
1. Ở cõi Avihā: Antarāparinibbāyī = 3 hạng, Upahaccaparinibbāyī = 1 hạng, Udḍhaṃsoto Akaniṭṭhagāmī = 1 hạng. Tổng: 5 hạng. Mỗi hạng trong 5 hạng này lại chia thành Asaṅkhāraparinibbāyī (5) và Sasaṅkhāraparinibbāyī (5), tổng là 10 hạng Bất Lai ở cõi Avihā.
2. Tương tự, cõi Atappā: 10 hạng.
3. Cõi Sudassā: 10 hạng.
4. Cõi Sudassī: 10 hạng.
5. Cõi Akaniṭṭha: Vì không có hạng Udḍhaṃsoto ở đây (vì là cõi cao nhất), nên chỉ có 8 hạng. Tổng cộng: 10 + 10 + 10 + 10 + 8 = 48 hạng Bất Lai.
Trong 48 hạng Bất Lai kể trên, hạng Udḍhaṃsoto Akaniṭṭhagāmī có thể được gọi là bậc cao nhất hoặc thấp nhất.
· Cao nhất: Vì có thọ mạng lâu nhất (16.000 kiếp).
· Thấp nhất: Vì đắc quả A–la–hán muộn nhất.
◾ Thời Điểm Nên Tu và Không Nên Tu
Không phải lúc nào cũng nên tu tập tất cả các Giác chi. Hành giả phải dùng trí tuệ để quán sát thời điểm mà tu tập cho thích hợp.
Ví dụ: Khi tâm co rút, thụ động (thina–middha), thì không nên tu tập Khinh An Giác Chi, Định Giác Chi và Xả Giác Chi. Vì sao? Vì tâm đang co rút, nếu tu tập các chi phần trầm lặng này sẽ càng khó khiến tâm trở nên tích cực, hăng hái. Nó giống như việc cho củi ướt vào ngọn lửa yếu.
Khi tâm co rút, thụ động, nên tu tập Trạch Pháp Giác Chi, Hỷ Giác Chi, và Tinh Tấn Giác Chi. Vì sao? Vì tu tập các chi phần này sẽ giúp tâm trở nên phấn chấn, năng động.
Hành giả phải quán sát trạng thái tâm của mình và bản chất của từng Giác chi để chỉ tu tập những chi phần thích hợp.
Riêng Niệm Giác Chi thì giống như muối trong thức ăn, có thể và nên được tu tập trong mọi trường hợp, vì nó có mặt trong mọi Giác chi.
Giáo Pháp được trình bày theo hai cách: Desanākkama (thứ tự thuyết giảng) và Bhāvanākkama (thứ tự tu tập). Bát Thánh Đạo thuộc về thứ tự thuyết giảng. Còn Thất Giác Chi thuộc về thứ tự tu tập. Do đó, chỉ nên tu tập những Giác chi thích hợp với từng thời điểm.
◾ Phương Pháp Tu Tập Giác Chi
Hãy trình bày phương pháp tu tập các Giác Chi đã được đề cập.
“Này các Tỳ–kheo, vị Tỳ–kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bảy Giác Chi bằng cách nào?”
“Này các Tỳ–kheo, ở đây, vị Tỳ–kheo khi nội tâm có Niệm Giác Chi, tuệ tri: ‘Nội tâm tôi có Niệm Giác Chi’. Khi nội tâm không có Niệm Giác Chi, tuệ tri: ‘Nội tâm tôi không có Niệm Giác Chi’.”
“Và vị ấy tuệ tri như thế nào là sự sanh khởi của Niệm Giác Chi trước đây chưa sanh; và tuệ tri như thế nào là sự viên mãn của Niệm Giác Chi đã sanh nhờ tu tập.”
Ngài dạy rằng khi vị ấy tu tập, quán chiếu và làm cho tăng trưởng như vậy, thì Niệm Giác Chi đạt đến sự viên mãn.
Các Giác Chi còn lại (từ Trạch Pháp đến Xả) cũng cần được quán chiếu và tu tập theo cách tương tự.
Khi tu tập, cần nhớ đến các phương pháp đã được chỉ dẫn sau đây và tu tập những Giác chi thích hợp với từng thời điểm. Các Giác Chi không phải là pháp để đoạn trừ, mà là những pháp cần được tu tập.
Khi tu tập các Pháp của bậc Thánh như Giác Chi, cần phải quân bình các căn: Tín và Tuệ, Tấn và Định.
· Nếu Tín quá mạnh so với Tuệ, thì dễ rơi vào mê tín, tin những điều không đáng tin.
· Nếu Tuệ quá mạnh so với Tín, thì dễ trở nên xảo trá, gian xảo, như căn bệnh khó chữa do thuốc men gây ra.
Có ba loại nghiệp thiện: Thân, Khẩu, Ý. Dù ý nghiệp cũng tạo phước, nhưng nếu không làm các thiện nghiệp như Bố thí, v.v…, thì vẫn có thể đọa lạc. Do đó, sau khi điều hòa Tín và Tuệ, hãy tu tập Giáo Pháp.
Như vậy, đôi khi hành giả dùng Tuệ Quán (Vipassanāñāṇa) để quán sát sự sanh khởi của các Giác Chi ngay trong nội tâm của mình. Đôi khi quán sát sự sanh khởi của chúng ở ngoại cảnh (nơi người khác).
Hành giả quán sát sự sanh của các Giác Chi với tính chất Samudaya (tập khởi). Quán sát sựdiệt của chúng với tính chất Vaya (hoại diệt). Quán sátcả sanh và diệt với tính chất Samudaya–vaya (tập khởi và hoại diệt). Và phải thường xuyên chánh niệm,quán chiếu và tu tập về sự hiện hữu của các Giác Chi.
Phần Bojjhaṅga–pabba (Phần Các Giác Chi) kết thúc.
.
Hòa thượng Shwe Hinthar (Shwe Hinthar Sayadaw)
Giáo Pháp của Đức Phật (Mahā Buddha Sāsana)
––
Sadhu! Sadhu! Sadhu!
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web
–––––––––––––––
Bài viết gốc tiếng Myanmar trên fb U Hla Myint xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/1BsKa8i9QY/
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
