Ledi Sayadaw – Khảo Luận Về Chi Phần Của Đạo – Magganga Dipani – 8/8

LEDI SAYADAW – KHẢO LUẬN VỀ CHI PHẦN CỦA ĐẠO – MAGGANGA DIPANI – 8/8

[Cách thiết lập nhóm Định. Cách thiết lập nhóm Tuệ. Sự sinh khởi của Thân kiến và Chánh kiến. Cách thiết lập tám chi Đạo]

https://www.facebook.com/share/p/16zsxHR3Av/

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

  • Ledi Sayadaw – Khảo Luận Về Chi Phần Của Đạo – Magganga Dipani – 1/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 2/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 3/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 4/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 5/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 6/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 7/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 8/8, Web

–––––––––––––––

Bản dịch Việt này của Deepseek ngày 27.9.2025 chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/1A6dBPLHeo/

–––––––––––––––

Luận Giải Về Các Chi Phần Của Đạo

Tác giả: Ngài Ledi Sayadaw

Phần cuối cùng (8/8)

🌿

–––––––––––––––

CÁCH THIẾT LẬP NHÓM ĐỊNH (SAMĀDHIKKHANDHA MAGGAṄGA)

–––––––––––––––

Thiết Lập Công Việc Tu Tập Chỉ Quán (Kammaṭṭhāna)

–––––––––––––––

Sau khi đã thọ trì và thiết lập vững chắc ba Chi Đạo thuộc nhóm Giới (Sīlakkhandha Maggaṅga) bằng cách giữ gìn một cách hoàn hảo, vị ấy an trú tốt đẹp trong lĩnh vực (bhūmi) của Giới Thanh Tịnh (Sīlavisuddhi).

Đối với vị ấy, các ác nghiệp về thân (kāyaduccarita) gồm 3 loại, cùng với tà mạng (micchājīva) – vốn là những lợi lộc của Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) – và các ác nghiệp về khẩu (vacīduccarita) gồm 4 loại; tổng cộng 7 ác nghiệp này đều được đoạn trừ.

Lĩnh vực (bhūmi) thứ ba to lớn của Tà Kiến (Diṭṭhi) trở nên an tịnh, không còn dao động.

Vào lúc đó, để đạt được lợi ích là đoạn trừ hai ác nghiệp về ý (manoduccarita) – được gọi là lĩnh vực (bhūmi) thứ hai của Tà Kiến (Diṭṭhi) – hành giả phải thiết lập ba Chi Đạo thuộc nhóm Định (Samādhikkhandha Maggaṅga), đó là: Chánh Tinh Tấn (Sammāvāyāma), Chánh Niệm (Sammāsati) và Chánh Định (Sammāsamādhi).

Việc thiết lập ba Chi Đạo thuộc nhóm Định có nghĩa là thiết lập công việc tu tập (ārammaṇa) một trong bốn mươi đề mục Thiền Định (Samatha kammaṭṭhāna), chẳng hạn như mười Biến Xứ (Kasiṇa), v.v…

.

CÁCH TU TẬP NIỆM HƠI THỞ (ĀNĀPĀNA)

–––––––––––––––

Trong phần này, chúng ta sẽ trình bày vắn tắt về việc tu tập đề mục Niệm Hơi Thở (Ānāpānakammaṭṭhāna). Những người sống trong sự ràng buộc của đời sống gia đình (Gharāvāsasambādha), nếu ban ngày không có cơ hội, thì nên tinh tấn thực hành công việc Niệm Hơi Thở (Ānāpānakammaṭṭhāna) một cách đều đặn vào ban đêm trước khi ngủ, chừng một hoặc hai giờ, hoặc vào buổi sáng trước khi thức dậy, chừng một giờ.

Cách thức thực hành như sau: Phải tinh tấn bằng hai loại tinh cần (viriya) – thân tinh cần (kāyikaviriya) và tâm tinh cần (cetasikaviriya) – để trong khoảng thời gian đã định, không cho phép tâm mình phóng đi nơi khác ngoài đối tượng là hơi thở vào và hơi thở ra, và để cho tâm an trú một cách vững chắc ngay trên đối tượng hơi thở vào–ra trong suốt thời gian đó, đúng theo lời dạy cao quý trong Kinh Pāli: “Sato va assasati, sato va passasati” (Vị ấy thở vào với niệm; vị ấy thở ra với niệm).

.

HAI LOẠI TINH CẦN (VIRIYA)

–––––––––––––––

“Thân tinh cần” (Kāyikaviriya) có nghĩa là nỗ lực tinh cần để không bỏ sót hay gián đoạn một ngày hay một buổi nào trong khoảng thời gian đã định.

“Tâm tinh cần” (Cetasikaviriya) có nghĩa là sự nỗ lực, cố gắng để không cho tâm chạy theo các đối tượng khác ngoài đối tượng hơi thở vào–ra; và để không cho sự dã dượi, buồn ngủ, thụ động, hôn trầm hoặc quên niệm (satī) phát sinh; điều này được gọi là sự kích thích tâm mình trú trên đối tượng hơi thở vào–ra.

.

Làm Cho Sự Ghi Nhận Của Tâm Được Vững Chắc

–––––––––––––––

Hành giả phải cố định tâm mình một cách kiên trì tại lỗ mũi, và khi hơi thở ra đi ngang qua nơi ấy, phải ghi nhận trong tâm là “thở ra”; khi hơi thở vào đi ngang qua, phải ghi nhận là “thở vào”, và làm cho sự ghi nhận ấy được liên tục. Hai loại tinh cần – thân tinh cần và tâm tinh cần – được thực hành như vậy chính là Chi Đạo Chánh Tinh Tấn (Sammāvāyāma Maggaṅga).

Sau khi thực hành như thế trong nửa tháng, một tháng, hai tháng, v.v…, chánh niệm (sati) trên hơi thở vào–ra trở nên vững chắc. Chánh niệm (sati) ấy chính là Chi Đạo Chánh Niệm (Sammāsati Maggaṅga). Sự an tịnh, định tĩnh (samādhi) của tâm trên đối tượng hơi thở vào–ra sẽ tăng trưởng dần. Định tâm (samādhi) ấy chính là Chi Đạo Chánh Định (Sammāsamādhi Maggaṅga). Như vậy, hành giả đã thiết lập được ba Chi Đạo thuộc nhóm Định. Sự điên cuồng và rối loạn của tâm (cittavikkhepa) dần dần biến mất. Khi đối diện với đối tượng thiền chỉ (kammaṭṭhānārammaṇa), ai cũng thấy rõ ràng sự không làm chủ được tâm mình. Trong đời, những kẻ điên cuồng, tâm trí rối loạn không làm chủ được tâm thì trở nên vô dụng trong các công việc đời thường.

Cũng vậy, những người được gọi là người tốt, tử tế trong đời, khi nói đến việc tu tập thiền chỉ, họ cũng thuộc vào hạng người điên cuồng, không làm chủ được tâm, và trở nên vô dụng khi đối diện với việc tu tập. Do đó, để làm cho tiêu tan sự điên cuồng và rối loạn của tâm, người ta phải tinh tấn thực hành ba Chi Đạo thuộc nhóm Định này.

[Đối với những điều còn lại cần nói về nhóm Định, xin hãy tham khảo các tác phẩm của chúng tôi như “Bodhipakkhiya Dīpanī” (Luận Giải Các Yếu Tố Giác Ngộ) và “Ānāpāna Dīpanī” (Luận Giải Niệm Hơi Thở).]

.

LÀM SAO SỰ PHÓNG DẬT CỦA TÂM CÓ THỂ BIẾN MẤT

–––––––––––––––

Mặc dù có thể chưa đạt đến Cận Định (Upacārabhāvanā) hay An Chỉ Định (Appanābhāvanā), nhưng dần dần hành giả sẽ dễ dàng đặt tâm mình trên đối tượng Niệm Hơi Thở (Ānāpānārammaṇa) trong khoảng một hoặc hai giờ mỗi ngày. Đối với người đã thiết lập được ba Chi Đạo thuộc nhóm Định và an trú trong cõi (bhūmi) của Tâm Thanh Tịnh (Cittavisuddhi), thì ba ác nghiệp về ý (manoduccarita) – là những lợi lộc của Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) – gồm: Tham Lam (Abhijjhā), Sân Hận (Byāpāda) và Tà Kiến (Micchādiṭṭhi) đều được đoạn trừ.

Lĩnh vực (bhūmi) thứ hai to lớn của Tà Kiến (Diṭṭhi), tức là ác nghiệp ý, trở nên an tịnh, không còn dao động. Sự điên cuồng và rối loạn của tâm phát sinh từ các Triền Cái (Nīvaraṇa) được lắng dịu và biến mất. Đây là cách thiết lập ba Chi Đạo thuộc nhóm Định.

.

THỜI ĐIỂM ĐỂ THIẾT LẬP NHÓM TUỆ (PAÑÑĀKKHANDHA)

–––––––––––––––

Ngay khi ba Chi Đạo thuộc nhóm Giới được thọ trì và an trú, chúng đã hiện hữu nơi vị ấy. Vị ấy được xem là người đã hoàn toàn viên mãn với Giới Thanh Tịnh (Sīlavisuddhi) kể từ thời điểm đó cho đến suốt thời gian vị ấy không vi phạm. Ngay trong ngày mà vị ấy thọ trì, vị ấy đã có đủ tư cách để bắt đầu thực hành công việc của nhóm Định (Samādhikkhandha Maggaṅga).

Đối với những người có tinh cần (viriya) mạnh mẽ, ba Chi Đạo thuộc nhóm Định cũng có thể an trú nơi họ chỉ trong vòng năm hoặc mười ngày, khi tâm điên cuồng rối loạn biến mất, họ đạt được đối tượng hơi thở vào–ra và đạt đến sự định tĩnh của tâm. Do đó, chỉ trong năm hoặc mười ngày, vị ấy được xem là người đã đạt đến một phần của Tâm Thanh Tịnh (Cittavisuddhi) kể từ thời điểm đó. Ngay lúc đó, vị ấy đã có đủ tư cách để bắt đầu thực hành công việc của nhóm Tuệ (Paññākkhandha Maggaṅga).

Phần thiết lập nhóm Định (Samādhikkhandha Maggaṅga) kết thúc.

–––––––––––––––

CÁCH THIẾT LẬP NHÓM TUỆ (PAÑÑĀKKHANDHA MAGGAṄGA)

–––––––––––––––

Cách Thiết Lập Năm Loại Tuệ Thanh Tịnh (Paññāvisuddhi)

–––––––––––––––

Như vậy, người đã an trú một cách tốt đẹp trong Giới Thanh Tịnh (Sīlavisuddhi) và Tâm Thanh Tịnh (Cittavisuddhi), cần phải thiết lập hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ (Paññākkhandha Maggaṅga) là Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) và Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa), nhằm mục đích đào xới và phá hủy lĩnh vực (bhūmi) thứ nhất to lớn của Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi).

Việc thiết lập hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ có nghĩa là bắt đầu thiết lập năm loại Tuệ Thanh Tịnh (Paññāvisuddhi), đó là: Kiến Thanh Tịnh (Diṭṭhivisuddhi), Đoạn Nghi Thanh Tịnh (Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi), Đạo Phi Đạo Tri Kiến Thanh Tịnh (Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi), Đạo Hành Tri Kiến Thanh Tịnh (Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi) và Tri Kiến Thanh Tịnh (Ñāṇadassanavisuddhi).

Chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt cách thiết lập. Trong toàn bộ thân thể của mình, tính cứng và tính mềm là Địa Đại (Paṭhavīdhātu). Tính kết dính và tính chảy là Thủy Đại (Āpodhātu). Tính nóng và tính lạnh là Hỏa Đại (Tejodhātu). Tính chống đỡ và tính chuyển động là Phong Đại (Vāyodhātu).

Toàn bộ phần đầu là một khối tập hợp của bốn đại. Tất cả các phần của thân, tất cả các phần của chân, tất cả các phần của tay – tất cả đều chỉ là những khối tập hợp của bốn đại. Tất cả tóc, tất cả lông, tất cả móng tay móng chân, tất cả răng, tất cả da, tất cả thịt thành khối, tất cả gân, tất cả xương, tất cả tủy xương, tất cả thận, tim, gan, màng, lá lách, phổi, ruột già, ruột non, thức ăn mới, thức ăn cũ, óc – tất cả đều chỉ là những khối tập hợp của bốn đại.

..

CỨNG–MỀM, KẾT DÍNH–CHẢY, NÓNG–LẠNH, CHỐNG ĐỠ–CHUYỂN ĐỘNG

–––––––––––––––

Chuỗi liên tục của Tứ Đại

Hãy lấy hai đặc tính Cứng và Mềm trong tính Cứng–Mềm. Hãy lấy hai đặc tính Kết dính và Chảy trong tính Kết dính–Chảy. Hãy lấy hai đặc tính Nóng (Hỏa mạnh) và Lạnh (Hỏa yếu) trong tính Nóng–Lạnh. Hãy lấy hai đặc tính Chống đỡ và Chuyển động trong tính Chống đỡ–Chuyển động.

1. Tính cứng là Địa Đại mạnh; tính mềm là Địa Đại yếu.

2. Tính kết dính là Thủy Đại yếu; tính chảy là Thủy Đại mạnh.

3. Tính nóng là Hỏa Đại mạnh; tính lạnh là Hỏa Đại yếu.

4. Tính chống đỡ là Phong Đại yếu; tính chuyển động là Phong Đại mạnh.

.

Cách Tính Cứng và Mềm Phát Sinh

–––––––––––––––

Trong một cục sáp bình thường, tồn tại loại Địa Đại mạnh. Tính cứng hiện rõ. Khi bị lửa chạm vào, loại Địa Đại cứng ấy diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Địa Đại mềm phát sinh theo chuỗi liên tục của nó. Rồi khi tách khỏi lửa trở lại, loại Địa Đại mềm diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Địa Đại cứng phát sinh theo chuỗi liên tục của nó.

.

Cách Tính Kết Dính và Chảy Phát Sinh

–––––––––––––––

Trong cục sáp bình thường đó, tồn tại loại Thủy Đại yếu. Tính kết dính hiện rõ. Khi bị lửa chạm vào, loại Thủy Đại kết dính ấy diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Thủy Đại chảy phát sinh theo chuỗi liên tục của nó. Rồi khi tách khỏi lửa trở lại, loại Thủy Đại chảy diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Thủy Đại kết dính phát sinh theo chuỗi liên tục của nó.

.

Cách Tính Lạnh và Nóng Phát Sinh

–––––––––––––––

Trong cục sáp bình thường đó, tồn tại loại Hỏa Đại yếu. Tính lạnh hiện rõ. Khi bị lửa chạm vào, loại Hỏa Đại lạnh ấy diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Hỏa Đại ấm/nóng phát sinh theo chuỗi liên tục của nó. Rồi khi tách khỏi lửa trở lại, loại Hỏa Đại ấm/nóng diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Hỏa Đại lạnh phát sinh theo chuỗi liên tục của nó.

.

Cách Tính Chống Đỡ và Chuyển Động Phát Sinh

–––––––––––––––

Trong cục sáp bình thường đó, tồn tại loại Phong Đại yếu. Tính chống đỡ hiện rõ. Khi bị lửa chạm vào, loại Phong Đại chống đỡ ấy diệt mất theo chuỗi liên tục của nó. Loại Phong Đại chuyển động phát sinh. Rồi khi tách khỏi lửa trở lại, loại Phong Đại chuyển động diệt mất. Loại Phong Đại chống đỡ phát sinh. Sự tập hợp của các quá trình phát sinh được gọi là “Sinh” (Udaya). Sự tập hợp của các quá trình diệt mất được gọi là “Diệt” (Vaya). Đó là Sinh–Diệt (Udayabbaya).

Đoạn văn này nhằm mục đích minh họa, dựa trên sự sinh diệt rõ ràng của các đại trong cục sáp, để giúp hành giả có thể hình dung được bản chất Sinh–Diệt (Udayabbaya) – gọi là Sinh và Diệt – trong việc thực hành Minh Sát (Vipassanā).

.

SINH (UDAYA) – TĂNG LÊN, DIỆT (VAYA) – GIẢM XUỐNG

–––––––––––––––

Khối tập hợp phần đầu, khối tập hợp thân, khối tập hợp chân, khối tập hợp tay cũng giống như cục sáp đó. Trong toàn thân, hai yếu tố nhiệt độ (utu) – nóng và lạnh – luôn luôn lên xuống không ngừng. Từ khi mặt trời mọc cho đến giữa trưa (khoảng 2 giờ), hơi nóng trong toàn thân tăng lên từng bậc, hơi lạnh giảm xuống từng bậc. Sau thời điểm đó, hơi lạnh tăng lên, hơi nóng giảm xuống. Đây là điều mọi người đều tự mình kinh nghiệm. Chỉ cần nêu lên một điểm nhỏ, người ta có thể thấy được nhiều điểm khác.

Khi hơi nóng tăng lên, các khối tập hợp thân thể như phần đầu, v.v… giống như cục sáp bị lửa chạm vào. Khi hơi lạnh tăng lên, các khối tập hợp thân thể giống như cục sáp tách khỏi lửa. Hai yếu tố nhiệt độ nóng và lạnh liên tục lên xuống theo từng giờ. Khi cái lạnh tăng lên thì cái nóng giảm xuống; khi cái nóng tăng lên thì cái lạnh giảm xuống. Sự tăng lên được gọi là “Sinh” (Udaya). Sự giảm xuống được gọi là “Diệt” (Vaya).

Trong hai yếu tố nóng và lạnh, sự tăng của cái này và sự giảm của cái kia luôn đi đôi với nhau.

.

SỰ LÊN XUỐNG CỦA BỐN ĐẠI

–––––––––––––––

Dựa trên sự lên xuống của hai yếu tố nhiệt độ nóng và lạnh này, tính cứng và tính mềm của Địa Đại cũng luôn luôn lên xuống không ngừng. Tương tự như vậy, tính kết dính và tính chảy của Thủy Đại, tính chống đỡ và tính chuyển động của Phong Đại cũng luôn luôn lên xuống không ngừng.

Các đại trong các khối tập hợp của thân thể như phần đầu, v.v… giống như những bong bóng nước nhỏ liên tục sinh và diệt, nổi lên và vỡ tan, trong một nồi nước sôi sùng sục. Toàn bộ thân thể này giống như một khối bọt biển lớn, một cục bọt biển lớn. Trong các bong bóng nước nhỏ, có sự hiện diện của hơi nước, bóng của hơi nước. Mỗi khi các bong bóng nước nhỏ vỡ tan, những cái bóng nương tựa vào chúng cũng diệt theo.

.

ĐỂ THẤY RÕ VÔ THƯỜNG (ANICCA), KHỔ (DUKKHA), VÔ NGÃ (ANATTĀ)

–––––––––––––––

Cũng vậy, các pháp danh (nāma) như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và nhận thức – những thứ nương tựa vào bốn đại – cũng diệt theo sự diệt của các đại ấy. Do đó, bốn đại cùng với sáu thức (viññāṇa) là Vô Thường (Anicca) vì chúng không có bản chất thường hằng; là Khổ (Dukkha) vì chúng luôn bị áp bức bởi sự sinh và diệt; và là Vô Ngã (Anattā) vì chúng không phải là một thực thể có lõi.

Đây là cách thiết lập hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ (Paññākkhandha Maggaṅga) trong các phần của thân thể, bắt đầu từ phần đầu.

Phần thiết lập nhóm Tuệ (Paññākkhandha Maggaṅga) kết thúc.

.

SỰ SINH KHỞI CỦA THÂN KIẾN (SAKKĀYADIṬṬHI) VÀ CHÁNH KIẾN (SAMMĀDIṬṬHI) Ở PHẦN ĐẦU

–––––––––––––––

Bốn Đại trong Phần Đầu

–––––––––––––––

Bây giờ, chúng ta sẽ trình bày về sự sinh khởi của Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) và Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) đối với bốn đại trong phần đầu. Trong phần đầu, các phần như tóc, lông, xương có đầy đủ tính cứng. Các phần như da, thịt, máu, óc có đầy đủ tính mềm. Hai đặc tính cứng và mềm này là Địa Đại (Paṭhavīdhātu).

Toàn bộ phần đầu chứa đầy hai loại Địa Đại này. Nó cũng chứa đầy Thủy Đại, chứa đầy Hỏa Đại, và chứa đầy Phong Đại. Địa Đại không phải là cái đầu. Thủy Đại, Hỏa Đại, Phong Đại không phải là cái đầu. Ngoài bốn đại ra, không có một cái “đầu” riêng biệt nào cả.

.

Sự Nhận Thức, Ghi Nhớ, Tri Giác và Quan Niệm Sai Lầm

–––––––––––––––

Những ai không phân biệt rõ ràng bốn đại, không biết tính cứng, v.v… là các đại riêng biệt, thì chỉ biết đó là “đầu”.

Họ chỉ nhận thức (sañjānāti) là “đầu”.

Họ chỉ tri giác (saññā) là “đầu”.

Họ chỉ quan niệm (diṭṭhi) là “đầu”.

Sự nhận thức (viññāṇa) cho rằng “đây là đầu” là sự méo mó của Tâm (Citta).

Sự ghi nhớ (saññā) cho rằng “đây là đầu” là sự méo mó của Tưởng (Saññā).

Sự tri giác (māna) cho rằng “đây là đầu” là sự kiêu mạn của Ngã Mạn (Māna).

Sự quan niệm (diṭṭhi) cho rằng “đây là đầu” là sự méo mó của Tà Kiến (Diṭṭhi).

Việc nhận thức, ghi nhớ, tri giác và quan niệm bốn đại như là “cái đầu” chính là việc nhận thức, ghi nhớ, tri giác và quan niệm bốn đại là Thường (Nicca) và Ngã (Atta).

Do đó, tổng hợp các hành động ấy chính là sự nhận thức, ghi nhớ, tri giác và quan niệm sai lầm, đảo lộn các đại – vốn là Vô Thường (Anicca) và Vô Ngã (Anattā) – thành Thường (Nicca) và Ngã (Atta).

Bốn đại là loại pháp (dhamma) có thể sinh diệt hàng trăm lần không ngừng trong một giờ, do đó, đúng như lời dạy: “Do bản chất hoại diệt, chúng là Vô Thường (Anicca); do không có lõi, chúng là Vô Ngã (Anattā)”.

Chỉ có Vô Thường và Vô Ngã mới là sự thật. Cái gọi là “cái đầu” không hoại diệt ngay khi chết; nó vẫn tồn tại nguyên vẹn cho đến khi được mang đến nghĩa địa. Do đó, nó được xem là Thường (Nicca) và Ngã (Atta).

Vì vậy, việc nhận thức, ghi nhớ, tri giác và quan niệm bốn đại như là “cái đầu” chính là sự đảo lộn, sai lầm khi xem Vô Thường là Thường, Vô Ngã là Ngã.

Tương tự, đối với các phần của đầu: việc nhận thức, ghi nhớ, tri giác và quan niệm bốn đại như là “tóc”, là “lông”, là “răng”, là “da”, là “thịt”, là “gân”, là “xương”, là “óc” – tất cả đều là những hành động đảo lộn, sai lầm khi xem các đại Vô Thường là Thường, Vô Ngã là Ngã.

Do không biết rõ tính cứng, v.v… là các đại, nên việc để cho tâm tri giác một cách sai lầm rằng tính cứng, v.v… là “đầu”, là “tóc”, là “lông”, là “răng”, là “da”, là “thịt”, là “gân”, là “xương”, là “óc” – chính là Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi).

.

Sự Tri Giác Chân Chánh

–––––––––––––––

Tính cứng là Địa Đại, không phải là đầu, không phải là tóc, lông, răng, da, thịt, gân, xương, óc.

Tính kết dính là Thủy Đại, không phải là đầu, tóc, v.v…

Tính nóng–lạnh là Hỏa Đại, không phải là đầu, tóc, v.v…

Tính chống đỡ–chuyển động là Phong Đại, không phải là đầu, tóc, v.v…

Về bản chất, không có cái “đầu”, không có “tóc”, không có “lông”, không có “răng”, không có “da”, không có “thịt”, không có “gân”, không có “xương”, không có “óc”.

Sự tri giác chân chánh trong tâm rằng “Về bản chất, không có cái gọi là đầu, tóc, v.v…; chỉ có các tập hợp đại mà thôi” – chính là Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi).

Đối với các phần còn lại của thân, cũng nên hiểu tương tự như trong phần đầu về sự sinh khởi của Thân Kiến và Chánh Kiến.

.

VÍ DỤ VỀ MŨI TÊN VÀ BÀN TAY NGẮM

–––––––––––––––

Việc suy xét các lý lẽ (yutti) để thấy rõ sự khác biệt của các đại chính là Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa).

Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) giống như mũi tên.

Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa) giống như bàn tay ngắm bắn, giúp cho mũi tên đi thẳng vào hồng tâm.

Đây là cách thiết lập vắn tắt hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ: Chánh Kiến và Chánh Tư Duy.

[Về phần trình bày chi tiết, xin hãy tham khảo các tác phẩm của chúng tôi như “Vijjāmagga Dīpanī” (Luận Giải Con Đường Trí Tuệ) và “Bhāvanā Dīpanī” (Luận Giải Tu Tập), v.v…]

.

PHẢI THỰC HÀNH THEO HAI HƯỚNG

–––––––––––––––

Như vậy, khi hành giả đã thiết lập được hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ – tức là việc quán chiếu và suy xét để thấy rõ sự sinh diệt (Udayabbaya),

các đặc tướng Vô Thường (Aniccalakkhaṇā) và

Vô Ngã (Anattālakkhaṇā)

trong toàn thân, bắt đầu từ phần đầu, nơi các tập hợp đại và sáu thức liên tục sinh diệt như những bong bóng trong nồi nước sôi – thì để cho tuệ giác ấy ngày càng tăng trưởng, hành giả phải kiên trì thực hành cho đến trọn đời.

Những người nông dân làm ruộng phải kết hợp việc làm ruộng với việc quán chiếu sự sinh diệt (Udayabbaya) của các đại trong thân thể, bắt đầu từ phần đầu. Như vậy, họ phải thực hành song song hai công việc.

.

TRỞ THÀNH BẬC THÁNH (ARIYA) AN TRÚ THEO LĨNH VỰC (BHŪMI)

–––––––––––––––

Khi đã thực hành kiên trì và thuần thục, tuệ giác Chánh Kiến (Sammādiṭṭhiñāṇa) về sự sinh diệt của các tập hợp đại sẽ bừng sáng khắp toàn thân. Khắp toàn thân, lĩnh vực (bhūmi) thứ nhất to lớn của Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) biến mất.

Lĩnh vực (bhūmi) thứ nhất to lớn của Thân Kiến, vốn được thiết lập liên tục từ vô thủy trong vòng luân hồi (Anamataggasaṃsāra), hoàn toàn tắt lịm.

Toàn bộ thân thể trở thành một lãnh địa rộng lớn của Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi).

Mười ác nghiệp (Duccarita) được đoạn trừ hoàn toàn.

Mười thiện nghiệp (Sucarita) được an trú vĩnh viễn.

Vòng luân hồi vào cõi khổ (Apāyasaṃsāra) hoàn toàn chấm dứt.

Chỉ còn lại vòng luân hồi trong các cõi thiện thú (Sugati): cõi người, cõi trời và cõi Phạm Thiên. Hành giả trở thành bậc Thánh (Ariya) an trú theo các cõi (Bhūmicāri).

Đến đây là kết thúc phần trình bày chi tiết về việc thực hành Tám Chi Đạo (Aṭṭhaṅgika Magga): ba Chi thuộc nhóm Giới, ba Chi thuộc nhóm Định và hai Chi thuộc nhóm Tuệ.

Phần trình bày về Sự Sinh Khởi của Thân Kiến và Chánh Kiến ở Phần Đầu kết thúc.

–––––––––––––––

TÓM TẮT CÁCH THIẾT LẬP TÁM CHI ĐẠO

–––––––––––––––

Tóm lại, việc giữ gìn một cách hoàn hảo Giới thanh tịnh (Sīlavisuddhi) – tức là Thánh Giới (Ariyasīla) có sự nuôi mạng chân chánh (Ājīvaṭṭhamakasīla) – chính là việc thực hành ba Chi Đạo thuộc nhóm Giới: Chánh Ngữ (Sammāvācā), Chánh Nghiệp (Sammākammanta) và Chánh Mạng (Sammāājīva).

Việc tu tập đề mục Niệm Hơi Thở (Ānāpānakammaṭṭhāna) chính là việc thực hành ba Chi Đạo thuộc nhóm Định: Chánh Tinh Tấn (Sammāvāyāma), Chánh Niệm (Sammāsati) và Chánh Định (Sammāsamādhi).

Việc quán chiếu để thấy rõ sự sinh diệt (Udayabbaya) của bốn đại và sáu thức, bắt đầu từ phần đầu, cho đến khi tuệ giác phát sinh, chính là việc thực hành hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ: Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) và Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa).

.

–––––––––––––––

PHƯƠNG PHÁP CỦA HÀNH GIẢ THUẦN QUÁN (SUKKHAVIPASSAKA)

–––––––––––––––

Đối với phương pháp của hành giả Thuần Quán (Sukkhavipassaka), họ không thực hành riêng biệt các đề mục Thiền Định (Samatha) như Niệm Hơi Thở (Ānāpāna), v.v… Sau khi thiết lập ba Chi Đạo thuộc nhóm Giới, họ bắt đầu thiết lập và thực hành công việc của nhóm Tuệ.

Ba Chi Đạo thuộc nhóm Định sẽ đi kèm một cách tự nhiên với hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ.

Điều này được gọi là Ngũ Chi Đạo (Pañcaṅgika Magga) – Đạo có năm chi phần. Năm chi này khởi lên cùng một lúc. Kết hợp với ba Chi thuộc nhóm Giới đã có trước, thành ra Tám Chi Đạo. Sự phóng dật của tâm cũng biến mất. Phương pháp này dành cho những người có căn cơ tuệ mạnh mẽ và tinh tấn dồi dào.

.

CHÁNH KIẾN PHÁT SINH MỖI KHI SUY XÉT

–––––––––––––––

Dù trong kiếp này hay kiếp sau, vào thời điểm mà tuệ giác Chánh Kiến (Sammādiṭṭhiñāṇa) bừng sáng khắp toàn thân, thì mỗi khi hành giả suy xét với tuệ giác đó, sự khẳng định của tuệ rằng “không có một người, một chúng sinh nào cả” sẽ hiện rõ. “Không có đàn ông, đàn bà. Không có ‘tôi’. Không có ‘ai’. Không có đầu, chân, tay, v.v… Không có tóc, lông, v.v…” – sự khẳng định của tuệ giác như vậy sẽ hiện rõ. Khi điều đó xảy ra, Thân Kiến (Sakkāyadiṭṭhi) – vốn tri giác một cách sai lầm rằng tính cứng, v.v… ở phần đầu là “cái đầu”, là “xương”, v.v… – sẽ biến mất. Thay vào đó, Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) – tuệ giác thấy rõ “không có cái đầu, chỉ có tập hợp các đại” – sẽ phát sinh mỗi khi suy xét. Cần phải hiểu tương tự như vậy cho toàn bộ thân thể.

.

HƯỞNG THỤ BA SỰ AN LẠC

–––––––––––––––

Khi hai Chi Đạo thuộc nhóm Tuệ vĩ đại – Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) và Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa) – đã an trú vững chắc khắp toàn thân như vậy, thì Ba Loại Khổ (Vatadukkha) – những gì thuộc về vòng luân hồi trong cõi khổ (Apāyasaṃsāra) – hoàn toàn chấm dứt. Kể từ thời điểm đó, vị ấy thoát khỏi Khổ (Dukkha) của vòng luân hồi cõi khổ. Vị ấy đạt đến Hữu Dư Y Niết Bàn (Sa–upādisesa Nibbāna) đầu tiên. Vị ấy trở thành cư dân của cõi Niết Bàn đầu tiên (Paṭhama Nibbāna Bhūmi).

Tuy nhiên, vì vẫn còn sự thấy biết về đặc tướng Khổ (Dukkhalakkhaṇā) và vì còn sót lại sự ham thích (Taṇhā) và ngã mạn (Māna) đối với an lạc của cõi người, cõi trời và cõi Phạm Thiên, nên vị ấy vẫn còn an trú trong trạng thái “An trú theo các cõi” (Bhūmicāri), tiếp tục hưởng thụ và thọ dụng ba loại an lạc đó. Đây là phần trình bày tóm tắt.

Đến đây, phần trình bày về cách thiết lập Tám Chi Đạo kết thúc.

Luận Giải Về Các Chi Phần Của Đạo (Magganga Dipani) kết thúc.

.

Tác giả: Đức Ngài Ledi Sayadaw Đầu Tiên (Paṭhama Ledi Sayadaw)

––

–––––––––––––––

Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/1A6dBPLHeo/

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 27/9/2025