Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 4/8
Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 4/8
[10 chánh kiến, 3 niềm tin, 2 năng lực, 2 con đường… ]
https://www.facebook.com/share/1B5sSDWfcj/
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
- Ledi Sayadaw – Khảo Luận Về Chi Phần Của Đạo – Magganga Dipani – 1/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 2/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 3/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 4/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 5/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 6/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 7/8, Web
- Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 8/8, Web
–––––––––––––––
Ledi Sayadaw – Maggaṅga Dīpanī
Phần (4/8)
🌿
Sự chấp thủ đáng kinh ngạc
▬▬▬▬▬▬▬▬
Việc người ta tin và chấp thủ rằng nếu nương tựa Thượng đế vĩnh cửu sẽ được thoát khỏi các tội lỗi ác hạnh cho đời sau, trong khi không hề có một truyền thống lâu đời hay bằng chứng rõ ràng nào cho thấy việc nương tựa Thượng đế vĩnh cửu có thể làm cho dù chỉ một vết lang ben, hắc lào, tàn nhang trong đời này được chữa khỏi, thật là một điều vô cùng đáng kinh ngạc.
Việc người ta tin và chấp thủ rằng nếu nương tựa Thượng đế vĩnh cửu thì sau khi chết sẽ được lên thiên đàng và hưởng sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc vĩnh cửu, trong khi không hề có một truyền thống lâu đời hay bằng chứng rõ ràng nào cho thấy việc nương tựa và cầu nguyện Thượng đế vĩnh cửu mang lại được dù chỉ một chút hạnh phúc trị giá một mu hay một mat (đơn vị tiền tệ nhỏ) trong đời này, cũng là một điều vô cùng đáng kinh ngạc.
Vì vậy, việc đạt được các loại lợi ích và an lạc khác nhau mà mình chưa có được trong đời này chỉ thuộc về các loại thiện nghiệp ở hiện tại, không thuộc về Thượng đế vĩnh cửu.
Đây là điều mà tất cả chúng sanh trên thế giới đều có kinh nghiệm trực tiếp và là truyền thống lâu đời. Do đó, thật đáng để tin một cách chắc chắn rằng đối với lợi ích và an lạc ở hiện tại, chỉ có thiện nghiệp ở hiện tại là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh.
Cách thức không liên quan đến Thượng đế vĩnh cửu
▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Như vậy, vì việc chỉ có thiện nghiệp ở hiện tại là nơi nương tựa cho chúng sanh trong các vấn đề lợi ích và an lạc ở hiện tại là điều có thể thấy được, có kinh nghiệm trực tiếp trên thế giới, nên trong việc tái sanh vào các cõi cao quý, tốt đẹp như cõi trời ở trên sau khi chết, điều đó cũng chỉ liên quan đến các loại thiện nghiệp như bố thí, giữ giới,… chứ không liên quan đến Thượng đế vĩnh cửu.
Thượng đế vĩnh cửu không thể cứu độ những người không có loại thiện nghiệp như bố thí, giữ giới,… để họ được tái sanh vào các cõi cao quý, tốt đẹp.
Cần phải tin rằng ngay cả khi không nương tựa Thượng đế vĩnh cửu, những người có thiện nghiệp như bố thí, giữ giới,… vẫn có thể tái sanh vào các cõi cao quý, tốt đẹp.
Các loại lợi ích và an lạc ở đời sau có nghĩa là sau khi chết được sanh vào cõi người, cõi trời, cõi Phạm thiên; được làm người trong dòng dõi triệu phú, phú hộ, vua chúa, quan lại; được làm chư thiên, Đế thích, Phạm thiên có quyền năng vĩ đại ở các cõi trời trên cao,…
Vì vậy, Ngài đã thuyết rằng: “Sabbe sattā kammappaṭissaraṇā” (Tất cả chúng sanh có nghiệp là nơi nương tựa).
Kết thúc phần giải thích thuật ngữ Sabbe sattā kammappaṭissaraṇā.
Giải thích thuật ngữ Tassa dāyādā
▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Dòng tương tục thân thể của một chúng sanh có hai loại: dòng tương tục sắc uẩn (rūpakkhandha) và dòng tương tục danh uẩn (nāmakkhandha).
Trong đó, tập hợp thân thể gồm đầu, tay, chân,… được gọi là loại sắc uẩn.
Loại tâm tư, suy nghĩ được gọi là loại danh uẩn.
Trong hai loại đó, loại sắc uẩn bị gián đoạn mỗi khi hết một đời sống; mỗi đời sống lại thay đổi một loại khác nhau.
Còn loại danh uẩn thì không hề có sự gián đoạn trong dòng tương tục; nó tiếp nối không gián đoạn từ đời này sang đời khác.
Loại thiện nghiệp như bố thí, giữ giới,… tiếp tục tạo dựng và thiết lập danh uẩn đó trong các cõi cao quý, tốt đẹp.
Nơi nào danh uẩn đến, các loại sắc uẩn mới khác nhau lại phát sinh. Loại nghiệp bất thiện như sát sanh,… sẽ ném danh uẩn của người đó vào các cõi xấu ác như chó, heo, gà, chim,… ở đời sau.
Kết thúc phần giải thích thuật ngữ Tassa dāyādā.
Kết thúc phần chỉ dẫn về Chánh kiến về Quyền sở hữu nghiệp (Kammassakatā Sammādiṭṭhi).
Chỉ dẫn về Chánh kiến dựa trên Mười Yếu tố (Dasavatthuka Sammādiṭṭhi)
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Atthi dinnaṃ, atthi yiṭṭhaṃ, atthi hutaṃ, atthi sukaṭadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, atthi mātā, atthi pitā, atthi sattā opapātikā, atthi ayaṃ loko, atthi paro loko, atthi loke samaṇabrāhmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti.
.
Chánh kiến thứ nhất
▬▬▬▬▬▬
Trong mười loại Chánh kiến dựa trên mười yếu tố:
* Atthi dinnaṃ
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có một loại thiện nghiệp (kusala) gọi là bố thí (dāna), có khả năng mang lại lợi ích và an lạc trong các đời sau, khi người ta đã thực hiện việc từ bỏ, cho đi, cúng dường, nuôi dưỡng với tâm ý trong sạch đối với các chúng sanh khác như chó, heo, gà, chim, người, sa–môn,… trong các đời trước.”
.
Chánh kiến thứ hai
▬▬▬▬▬▬
* Atthi yiṭṭhaṃ
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có một loại thiện nghiệp gọi là tế tự (yajja), có khả năng mang lại lợi ích và an lạc trong các đời sau, khi người ta đã thực hiện việc cúng dường với đức tin (saddhā) tin vào nghiệp, cũng như tin vào giới đức (sīlaguṇa), định đức (samādhiguṇa), tuệ đức (paññāguṇa) của người nhận vật thí trong các đời trước.”
.
Chánh kiến thứ ba
▬▬▬▬▬▬
* Atthi hutaṃ
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có một loại thiện nghiệp gọi là vật dâng cúng cho khách (āhuna, pāhuna), có khả năng mang lại lợi ích và an lạc trong các đời sau, khi người ta đã thực hiện việc cho đi với tâm ý trong sạch qua các món quà biếu trong các đời trước.”
.
Chánh kiến thứ tư
▬▬▬▬▬▬
* Atthi sukaṭadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có cái gọi là quả gốc và quả nối tiếp xấu, quả gốc và quả nối tiếp tốt trong các đời sau, khi người ta đã thực hiện các hành vi ác hạnh (duccarita) như đánh đập, hành hạ chúng sanh người và chúng sanh thú có mạng sống, hoặc các hành vi thiện hạnh (sucarita) như từ bỏ việc đánh đập, hành hạ,… trong các đời trước.”
.
Chánh kiến thứ năm
▬▬▬▬▬
* Atthi mātā
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có cái gọi là nghiệp, có khả năng cho quả tốt hoặc quả xấu trong các đời sau, dù cho người ta đã phụng dưỡng mẹ một cách tốt đẹp hay đã xúc phạm một cách xấu xa.”
.
Chánh kiến thứ sáu
▬▬▬▬▬▬
* Atthi pitā
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có cái gọi là nghiệp, có khả năng cho quả tốt hoặc quả xấu trong các đời sau, dù cho người ta đã đối xử với cha một cách tốt đẹp hay đã xúc phạm một cách xấu xa.”
.
Chánh kiến thứ bảy
▬▬▬▬▬▬
* Atthi sattā opapātikā
– Đây là Chánh kiến thấy biết và tin tưởng rằng: “Ở thế gian này, chắc chắn có các chúng sanh hóa sanh (upapāta), những chúng sanh không thể nhìn thấy bằng mắt thường của con người.”
Loại chúng sanh hóa sanh không phải là loại chúng sanh phải thụ thai trong bụng mẹ. Họ là những chúng sanh xuất hiện một cách trọn vẹn ngay lập tức với đầy đủ các bộ phận cơ thể, đầu, tay, chân, không cần phải lớn lên thêm nữa, do năng lực của nghiệp đã tạo trong các đời trước.
Tất cả các loại chúng sanh địa ngục cư ngụ trong tám cõi đại địa ngục cùng với hàng nghìn địa ngục nhỏ, tồn tại thành từng tầng lớp trong các hang động lớn dưới lòng đất, đều là loại chúng sanh hóa sanh.
Một số loại ngạ quỷ (peta), a–tu–la (asurakāya) tồn tại trong các khu rừng, vùng núi, các hòn đảo nhỏ giữa đại dương trên mặt đất cũng là loại chúng sanh hóa sanh.
Một số loại chư thiên địa cầu (bhummasodeva) ở các thành thị, làng mạc, rừng núi trên mặt đất; một số loại dạ–xoa (yakkha), lính canh (purisādaka) sống ở các hòn đảo nhỏ giữa đại dương; một số loại dạ–xoa, lính canh sống gần các thành thị, làng mạc; một số loại rồng (nāga), kim sí điểu (garuḷa) cũng là loại chúng sanh hóa sanh.
Các vị chư thiên, Đế thích ở sáu cõi trời như cõi Tứ Đại Thiên Vương (Cātumahārājika), cõi Đao Lợi (Tāvatiṃsa), cõi Dạ Ma (Yāmā),… tồn tại thành từng tầng lớp trên bầu trời, bắt đầu từ nơi có mặt trời, mặt trăng, các chòm sao và các vì sao, cũng chỉ là loại chúng sanh hóa sanh.
Các vị Phạm thiên ở hai mươi cõi Phạm thiên, bao gồm ba cõi Sơ thiền, ba cõi Nhị thiền, ba cõi Tam thiền, bảy cõi Tứ thiền, và bốn cõi Vô sắc, tồn tại thành từng tầng lớp trên bầu trời, phía trên sáu cõi trời, cũng là loại chúng sanh hóa sanh.
.
Thượng đế vĩnh cửu là ai?
▬▬▬▬▬▬
Trong hai mươi cõi đó, ở ba cõi Sơ thiền là cõi thấp nhất, có một vị Đại Phạm thiên vương có oai lực vĩ đại.
Các tôn giáo khác lầm tưởng và nương tựa vị Phạm thiên vương đó là Thượng đế vĩnh cửu. Các tôn giáo khác không còn biết đến các cõi trời tồn tại thành từng tầng lớp phía trên cõi đó.
Mặt trời, mặt trăng, các chòm sao và các vì sao trên bầu trời chính là các cung điện thiên giới, nơi ở của chư thiên. Khi đã thấy biết được các cung điện thiên giới đó, người ta cũng đáng tin vào sự tồn tại của các cung điện thiên giới ở các tầng cao hơn, cũng như các chúng sanh hóa sanh là chư thiên, Đế thích, Phạm thiên ở các tầng cao hơn.
.
Có thể thấy và không thể thấy chúng sanh hóa sanh
▬▬▬▬▬▬
Loại chúng sanh hóa sanh, dù cho họ có bám víu, nương náu vào thân thể của chúng sanh người, cũng không thể được nhìn thấy bằng mắt thường của con người. Tuy nhiên, khi họ hóa hiện và phô bày ra hình tướng mà con người có thể thấy được, thì con người mới thấy họ.
Họ là loại chúng sanh không thể nhìn thấy bằng mắt thường của con người, giống như vị Đại Phạm thiên được gọi là Thượng đế vĩnh cửu và các loại thiên thần, ác thần, tà thần trong các tôn giáo khác. Việc thấy biết và tin tưởng rằng các loại chúng sanh hóa sanh như vậy chắc chắn có tồn tại trong thế gian chính là một loại Chánh kiến vĩ đại.
.
Chánh kiến thứ tám và thứ chín
▬▬▬▬▬▬
*Atthi ayaṃ loko, atthi paro loko
–Trong câu Pāḷi này cõi người được gọi là thế giới này (ayaṃ loko). Bốn cõi khổ là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a–tu–la, cùng với cõi trời và cõi Phạm thiên được gọi là thế giới bên kia (paro loko).
Việc thấy biết và tin tưởng rằng có hai thế giới như vậy là hai loại Chánh kiến.
Các tôn giáo khác không còn biết một cách đúng đắn về cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, cõi a–tu–la. Họ cũng không còn biết một cách đúng đắn về cõi trời, cõi Phạm thiên ở trên cao.
Một cách giải thích khác: Cõi người, bốn cõi khổ, các cõi trời là nơi ở của chư thiên, Đế thích, Phạm thiên đang tồn tại trong thế giới Ta–bà (cakkavāḷa) này được gọi là thế giới này.
Về phía đông của thế giới này, có vô số, vô lượng, vô biên các thế giới giống như thế giới Ta–bà này, là nơi ở của chúng sanh ở bốn cõi khổ, người, trời và Phạm thiên.
Tương tự, về phía nam của thế giới này cũng có vô số thế giới; về phía tây cũng có vô số thế giới; về phía bắc cũng có vô số thế giới. Như vậy, ngoài thế giới Ta–bà này, vô số, vô biên các thế giới, các hệ thống thế giới khác được gọi là thế giới bên kia.
Các tôn giáo khác không còn biết về hệ thống thế giới này và vô biên hệ thống thế giới bên kia.
.
Chánh kiến thứ mười
▬▬▬▬▬▬
* Atthi loke samaṇabrāhmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti
– Trong câu Pāḷi này, có một loại trí tuệ vĩ đại gọi là thắng trí (abhiññā). Có một loại trí tuệ vĩ đại gọi là toàn giác trí (sabbaññutañāṇa).
Ở cõi người này, các vị sa–môn, bà–la–môn có thể nỗ lực, tinh tấn một cách phi thường trong việc thực hành ba–la–mật, thực hành thiền định (samatha bhāvanā), thực hành thiền minh sát (vipassanā bhāvanā) có thể đạt được các loại trí tuệ vĩ đại đó.
Những vị có thể thành tựu, đạt đến các loại trí tuệ vĩ đại đó thỉnh thoảng lại xuất hiện trong thế giới loài người này.
Trong hai loại đó, một số vị chỉ có thể đạt đến một loại trí tuệ vĩ đại gọi là thắng trí. Những vị đó thấy biết bằng con mắt trí tuệ về bốn cõi khổ, sáu cõi trời, và một số cõi Phạm thiên, giống như thể họ đang nhìn bằng mắt thường.
Một số vị có thể đạt đến các loại trí tuệ vĩ đại gọi là thắng trí cùng với loại trí tuệ vĩ đại gọi là toàn giác trí. Những vị đó có thể thấy biết một cách toàn diện về vô biên chúng sanh, vô biên thế giới, vô biên hệ thống Ta–bà, vô biên hệ thống thế giới.
Chỉ những vị thấy biết một cách toàn diện như vậy mới được gọi là Phật trong Phật giáo.
.
Ba loại niềm tin
▬▬▬▬▬▬▬
Hai loại cá nhân này thỉnh thoảng lại xuất hiện trong thế giới loài người và tùy theo sự thấy biết của mình mà tuyên thuyết, giảng giải cho chúng sanh về thế giới này.
Họ cũng tuyên thuyết, giảng giải về thế giới bên kia được gọi là bốn cõi khổ, sáu cõi trời, cõi Phạm thiên.
Còn các vị Phật Toàn Giác thì tuyên thuyết, giảng giải về sự tồn tại của vòng luân hồi vô thủy (anamatagga saṃsāra), sự tồn tại của vô biên thế giới, sự tồn tại của vô biên hệ thống Ta–bà.
Việc thấy biết và tin tưởng rằng các bậc có thắng trí, các bậc Toàn Giác như vậy thỉnh thoảng lại xuất hiện ở cõi người;
do thấy biết và tin tưởng vào các vị đó mà thấy biết và tin tưởng vào lời dạy, giáo pháp mà các vị đó tuyên thuyết, giảng giải;
do tin tưởng vào lời dạy, giáo pháp mà các vị đó tuyên thuyết, giảng giải mà thấy biết và tin tưởng vào tất cả các thế giới bên kia đã được trình bày – ba loại niềm tin này là một loại Chánh kiến vĩ đại.
Chỉ những người có Chánh kiến vĩ đại này mới có thể tin rằng ở các cõi trời trên cao chỉ có chư thiên, Đế thích, Phạm thiên; không có Phật Toàn Giác, và Phật Toàn Giác chỉ có ở cõi người.
Còn trong các tôn giáo khác không có Chánh kiến này, họ suy luận và cho rằng các vị Phật Toàn Giác có khả năng biết tất cả mọi thứ không thể xuất hiện ở cõi người thấp kém, mà chỉ có thể xuất hiện ở cõi trời vĩ đại, cao nhất.
.
Hai loại năng lực
▬▬▬▬▬
(1) Năng lực của nghiệp là một loại.
(2) Năng lực của trí tuệ là một loại khác.
Trong hai loại đó, về năng lực của nghiệp, năng lực của nghiệp thiền (jhāna kamma) là vô cùng mạnh mẽ.
Nó có thể cho quả tái sanh lên đến cõi của vị Đại Phạm thiên có tuổi thọ rất dài ở cõi trời cao nhất. Tuy nhiên, nó không thể cho quả vị Phật Toàn Giác.
Vị Đại Phạm thiên đó không có trí tuệ có thể thấy biết tất cả mọi thứ một cách toàn diện.
Vì vậy, trong các tôn giáo đó, không có giáo pháp nào do Thượng đế vĩnh cửu thuyết giảng mà lại sâu sắc, kỳ diệu, đáng kinh ngạc về phương diện trí tuệ.
Tại sao vậy? Vì sự tồn tại của các vị Đại Phạm thiên đó không phải là loại (thành tựu) của trí tuệ.
Chỉ ở cõi người mới có sự thực hành để đạt được toàn giác trí. Chỉ người nào có thể thực hành thành công, thành tựu sự thực hành để đạt được toàn giác trí mới có thể có được toàn giác trí, trí tuệ có thể thấy biết tất cả mọi thứ một cách toàn diện.
Vì vậy, chỉ trong Phật giáo mới có loại giáo pháp vô cùng sâu sắc, kỳ diệu, đáng kinh ngạc. Tại sao vậy? Vì đó là con đường của trí tuệ.
.
Hai con đường
▬▬▬▬▬
Ở thế gian, việc phấn đấu để trở thành một đại phú hộ, có nhiều tài sản vật chất là một con đường.
Việc phấn đấu để đạt được tri kiến, trở thành một vị thầy vĩ đại của nhiều người qua sự thực hành của một ẩn sĩ, một sa–môn là một con đường khác.
Con đường của vị Đại Phạm thiên giống như con đường của đại phú hộ.
Con đường của các vị ẩn sĩ, sa–môn giống như con đường của vị thầy vĩ đại.
.
Một ví dụ khác
▬▬▬▬▬▬
Các loài chim như vẹt, sáo, quạ, kền kền có cánh nên có thể bay lượn trên bầu trời cao. Nhưng chúng không có kiến thức, sự khôn ngoan, trí tuệ như con người.
Con người có kiến thức, sự khôn ngoan, trí tuệ, nhưng không có cánh nên không thể bay lượn trên bầu trời. Đây là một ví dụ.
Nghiệp thiện thiền (jhāna kusolakamma) của vị Đại Phạm thiên giống như đôi cánh của các loài vẹt, sáo, quạ, kền kền. Thắng trí, toàn giác trí của các vị ẩn sĩ, sa–môn giống như kiến thức, sự khôn ngoan, trí tuệ của con người.
Nghiệp thiện của các thiên nữ, thiên tử sống ở các cõi trời là mặt trời, mặt trăng, các chòm sao, các vì sao giống như đôi cánh của các loài vẹt, sáo, quạ, kền kền. Thắng trí, toàn giác trí của các vị ẩn sĩ, sa–môn giống như kiến thức, sự khôn ngoan, trí tuệ của con người.
.
Cách thức một vị Phật chân chánh chỉ xuất hiện trong cõi người
▬▬▬▬▬▬
Nghiệp thiện của các vị chư thiên, Đế thích, Phạm thiên đang sống ở các cõi trời như sáu cõi trời, các tầng cõi Phạm thiên ngày càng cao hơn, giống như đôi cánh của các loài vẹt, sáo, quạ, kền kền.
Thắng trí, toàn giác trí của các vị ẩn sĩ, sa–môn giống như kiến thức, sự khôn ngoan, trí tuệ của con người.
Vì vậy, vị Đại Phạm thiên đó, do năng lực của nghiệp thiện thiền, được sống ở cõi trời vĩ đại, cao hơn cả các vị thiên tử mặt trời, mặt trăng; có tuổi thọ kéo dài một đại kiếp; có oai lực vĩ đại.
Tuy nhiên, vì không có thắng trí, toàn giác trí nên ngài không thể biết được các loại giáo pháp sâu sắc; trí tuệ của ngài chỉ có thể phát sinh trong những gì ngài trực tiếp trải nghiệm.
Như vậy, cần phải thấy biết và tin tưởng một điểm rằng: một vị Phật có khả năng biết tất cả mọi thứ một cách toàn diện không thể xuất hiện ở các cõi trời, mà chỉ có thể xuất hiện ở cõi người.
Cần phải tin tưởng một điểm rằng: chỉ có các vị sa–môn, bà–la–môn xuất thân từ loài người, những vị đã viên mãn thắng trí và toàn giác trí, mới có thể biết và thấy một cách chân chánh các vấn đề như: bản chất của thế giới, bản chất của hệ thống thế giới, cách thức chúng sanh lang thang trong các đời sống nối tiếp, cách thức nghiệp thiện và nghiệp bất thiện cho quả, những điều mà mắt thường của người phàm không thể thấy được.
Cần phải tin tưởng một cách chắc chắn và chân thật chỉ vào lời dạy trong Kinh, Luật, và Vi Diệu Pháp của các vị sa–môn, bà–la–môn có khả năng biết và thấy như vậy.
Trí tuệ Chánh kiến có khả năng thấy biết và tin tưởng vào những điểm này được gọi là “Trí tuệ Chánh kiến Atthi loke samaṇabrāhmaṇā”.
.
Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw
–––––––––––––––
Bản gốc tiếng Myanmar trên fb của U Hlaing Myint xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/1aHp9aPbhn/
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
