Hỏi Đáp: Ghi nhận mọi đối tượng khởi sanh, có phải là trạo cử (uddhacca) không… – Mahasi Sayadaw
Hỏi Đáp: Ghi nhận mọi đối tượng khởi sanh, có phải là trạo cử (uddhacca) không…❓ – Mahasi Sayadaw
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Trích từ bài giảng về kinh Sallekha của Ngài Mahasi Sayadaw, do Ngài Tharmanaykyaw Sayadaw biên soạn trong tuyển tập “Những Quan Điểm Đặc Sắc của Ngài Mahasi Sayadaw”
–––––––––––––––
https://www.facebook.com/share/p/19NnQvG99D/
#Mahasivietbook #myanmarsayadaw #MahasiSayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Gemini pro 2.5, ngày 23.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=3207146169435839&id=100004214615175&mibextid=ZbWKwL
–––––––––––––––
Ghi nhận mọi đối tượng khởi sanh, có phải là trạo cử (uddhacca) không…❓
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Có một lần, tôi nhận được một lá thư. Khi đọc, tôi thấy người viết không hài lòng và chỉ trích về phần trình bày phương pháp quán chiếu các hành pháp tạp mạn (pakiṇṇakasaṅkhārā) sau khi xuất khỏi tầng thiền (jhāna), trong cuốn sách của tôi viết về lý do thực hành thiền (kammaṭṭhāna).
Người ấy, với quan niệm cố định như “dao khắc trên mạn thuyền” rằng “chỉ khi quán chiếu một đối tượng duy nhất thì định (samādhi) mới sanh khởi”, đã cho rằng “việc theo dõi và quán chiếu các đối tượng khởi sanh liên tục, bắt đầu từ sự thấy, sự nghe… là sự phóng dật, trạo cử (uddhacca)”.
Vì vậy, người ấy đã nêu lên chất vấn rằng: “Sau khi xuất khỏi tầng thiền, nếu theo dõi quán chiếu các đối tượng khởi sanh liên tục, chẳng phải sẽ trở thành trạo cử (uddhacca) và làm cho định (samādhi) bị hư hoại hay sao?”.
Trong thư không có địa chỉ để hồi âm, vì vậy tôi không có cơ hội gửi thư trả lời. Bức thư được viết với tư cách của một phụ nữ. Nhưng thực sự, tôi không biết người đó là ai.
Ở đây, tôi chỉ trích dẫn và trình bày lại những điều đã được chỉ ra trong Chú giải kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta), thuộc Chú giải Trung Bộ Kinh, phần Nguyên thủy Ngũ thập (Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, trang 387).
Điều này cũng tương hợp với kinh nghiệm thực chứng của các thiền sinh đang hành thiền hiện nay.
Tuy nhiên, vì đây là một tập luận nhỏ được viết một cách cô đọng, nên tôi đã không trích dẫn các đoạn Pāli làm bằng chứng ở đó.
Có hai loại định (samādhi):
* Một loại là định của thiền chỉ (samatha–samādhi).
* Một loại khác là định của thiền minh sát (vipassanā–samādhi).
Để đạt được Thánh Đạo (Ariya–magga), có hai loại định (samādhi) cần phải nỗ lực thực hành như vậy.
Trong hai loại đó, định của thiền chỉ (samatha–jhāna–samādhi) thì an trú trên một đối tượng duy nhất.
Nếu là đề mục biến xứ (kasiṇa), thì chỉ khi quán chiếu trên một đối tượng duy nhất như biến xứ đất (pathavī–kasiṇa), hành giả mới có thể đạt được cận định (upacāra–samādhi) và an chỉ định (appanā–samādhi).
Nếu là đề mục bất tịnh (asubha), thì cũng chỉ khi quán chiếu trên một đối tượng duy nhất như tử thi sình trương (uddhamātaka), hành giả mới có thể đạt được hai loại định ấy.
Ngay cả khi quán chiếu 32 thể trược (kottḥāsa), ban đầu hành giả phải quán sát cả 32 phần, nhưng về sau, phải loại bỏ những phần không rõ ràng và chỉ quán chiếu những phần rõ ràng.
Cuối cùng, hành giả đạt được hai loại định ấy chỉ trên một thể trược (kottḥāsa) duy nhất.
Do đó, đối với định của thiền chỉ (samatha–samādhi), hành giả phải quán chiếu một đối tượng duy nhất. Chắc chắn rằng nếu quán chiếu nhiều đối tượng thì định sẽ không sanh khởi.
Còn định của thiền minh sát (vipassanā–samādhi) thì không phải như vậy. Đối với một số vị có trí tuệ đặc biệt nhanh nhạy (khippābhiññā), cũng có thể có trường hợp các vị ấy đạt được Đạo và Quả (magga–phala) trong một khoảnh khắc ngắn ngủi khi đang quán chiếu một đối tượng duy nhất.
Tuy nhiên, có thể cho rằng những vị như vậy là vô cùng hiếm.
Tại sao vậy? Bởi vì, tối thiểu cũng nên quán chiếu đầy đủ cả hai loại là sắc (rūpa) và danh (nāma).
Thông thường, thiền minh sát (vipassanā) là phải quán chiếu toàn bộ các pháp danh–sắc khởi sanh rõ rệt từ sáu môn (dvāra), phù hợp với lời giáo huấn đã được thuyết giảng rằng: “(Saṃ abhiññeyya) (Nên được biết đến một cách trực diện và toàn diện)”.
Vì vậy, cũng có những vị đã chứng đắc Đạo và Quả (magga–phala) bằng cách luân phiên giữa việc nhập thiền (jhāna) và quán chiếu chính tầng thiền đó, tức là một lúc nhập thiền, một lúc thực hành minh sát (vipassanā).
Ngoài ra, cũng có những vị, sau khi nhập thiền (jhāna), phải theo dõi và quán chiếu các hành pháp tạp mạn (pakiṇṇakasaṅkhārā) khởi sanh từ sáu môn (dvāra).
Khi thân và tâm trở nên mệt mỏi, vị ấy lại nhập thiền trở lại. Khi xuất khỏi thiền, vị ấy lại theo dõi và quán chiếu các đối tượng khởi sanh.
Bằng phương pháp này, tuệ minh sát (vipassanā–ñāṇa) phát triển tuần tự và có những vị đã đạt đến Đạo và Quả (magga–phala).
Cách thức quán chiếu như vậy được trình bày trong Chú giải kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta Aṭṭhakathā) đã đề cập lúc nãy như sau:
(Ettāvatā – ဤမျှသော စကားရပ်ဖြင့်။) (Với ngần ấy lời), (Bodhisattassa – ဘုရား အလောင်းတော်၏။) (của vị Bồ–tát), (samāpatti–nissaya – ဈာန်သမာပတ်ကိုမှီ၍။) (nhờ nương vào thiền chứng), (vipassanā–paṭṭhapanakālo – ဝိပဿနာကို ဖြစ်စေသော ကာလကို။) (thời điểm làm cho minh sát sanh khởi), (kathito – ဟောတော်မူအပ်၏။) (đã được thuyết giảng).
(Hi – မှန်ပေ၏။) (Quả thật vậy), (yassa – အကြင်ပုဂ္ဂိုလ်အား။) (đối với người nào), (samādhi taruṇā vipassanā’pi – သမာဓိရော ဝိပဿနာရော နုသေး၏။) (cả định và minh sát đều còn non yếu), (tassa – ထိုပုဂ္ဂိုလ်အား။) (đối với người đó), (vipassanaṃ paṭṭhapetvā aticiraṃ nisinna–ssa – ဝိပဿနာကိုဖြစ်စေ၍ အလွန်ကြာမြင့်စွာ နေလတ်သော်။) (khi làm cho minh sát sanh khởi và ngồi trong một thời gian rất lâu), (kāyo kilamati – ကိုယ်ပင်ပန်း၏။) (thân trở nên mệt mỏi).
(Anto – ကိုယ်တွင်း၌။) (Bên trong thân), (aggi viya uṭṭhahati – မီးထတောက်သကဲ့သို့ ပူလောင် တတ်၏။) (nóng nảy như lửa bốc cháy). (Kacchehi sedā muñcanti – လက်ကတီးကြားတို့မှ ချွေးများ ထွက်တတ် ကုန်၏။) (Mồ hôi túa ra từ nách). (Matthakato – ဦးထိပ်မှ။) (Từ đỉnh đầu), (usuma–vaṭṭi viya uṭṭhahati – အခိုးအငွေ့ ထောင်းထောင်းထသကဲ့သို့ ဖြစ်တတ်၏။) (khí nóng bốc lên như một cột khói). (Cittaṃ – စိတ်သည်၊) (Tâm), (haññati vihaññati vindati – အလွန်ပင်ပန်း တုန်လှုပ်၏။) (trở nên vô cùng mệt mỏi, dao động).
(So – ထိုယောဂီသည်၊) (Vị thiền sinh đó), (puna samāpattiṃ samāpajjitvā – တစ်ဖန် သမာပတ်ကို ဝင်စားပြီး၍။) (lại nhập vào thiền chứng), (taṃ – ကိုယ်စိတ်၏ ထိုပင်ပန်း ခြင်းကို။) (sự mệt mỏi của thân và tâm ấy), (paridametvā – သိမ်မွေ့စေ၍။) (làm cho dịu đi), (mudukaṃ katvā – နူးညံ့စေ၍။) (làm cho mềm mại), (samassāsetvā – သက်သာရာရစေ၍။) (làm cho được thoải mái), (puna vipassanaṃ paṭṭhapeti – တစ်ဖန် ဝိပဿနာကို ဖြစ်စေပြန်၏။) (lại làm cho minh sát sanh khởi trở lại).
(Puna aticiraṃ nisinna–ssa – တစ်ဖန် အလွန်ကြာမြင့်စွာ ထိုင်နေလတ် သော်။) (Khi lại ngồi trong một thời gian rất lâu), (tassa – ထိုယောဂီအား၊) (đối với thiền sinh đó), (tatheva hoti – ထို့အတူပင် ပင်ပန်းပြန်၏။) (sự mệt mỏi lại xảy ra y như vậy).
(So – ထိုယောဂီသည်၊) (Vị thiền sinh đó), (puna samāpattiṃ samāpajjitvā – တစ်ဖန် သမာပတ်ကို ဝင်စား၍။) (lại nhập vào thiền chứng), (tatheva karoti – ထို့အတူပင် ပြုပြင်၏။) (lại điều chỉnh y như vậy).
(Hi – ထိုသို့ပြုသင့်သည် မှန်ပေ၏။) (Quả thật, nên làm như vậy), (samāpatti – သမာပတ်သည်၊) (sự nhập thiền chứng), (vā – ဈာန်ကို ဝင်စားခြင်းသည်။) (hay việc nhập thiền), (vipassanāya – ဝိပဿနာအား၊) (đối với minh sát), (bahūpakārā – ကျေးဇူးများလှ ပါပေ၏။) (có rất nhiều sự hỗ trợ).
Đó là cách thức theo dõi và quán chiếu các pháp cần phải quán sau khi xuất khỏi thiền chứng.
Thiền minh sát (vipassanā) thường bắt đầu bằng việc quán chiếu các pháp sắc (rūpa) rõ rệt, đặc biệt là bắt đầu từ bốn đại (dhātu).
Sau đó, cũng phải quán chiếu các pháp thọ (vedanā), tâm (citta) khởi sanh.
Theo Kinh Tương Ưng Bộ (Saṃyutta Pāḷi), nơi có giảng rằng: “Biết con mắt là vô thường; biết các cảnh sắc là vô thường; biết cái thấy là vô thường”, thì rõ ràng là phải quán chiếu các pháp hiện hành rõ rệt tại thời điểm thấy…
Hơn nữa, trong các bộ Chú giải như Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), có trình bày về cách thức đạt được Đạo và Quả (magga–phala) bằng cách quán chiếu các hành pháp tạp mạn (pakiṇṇakasaṅkhārā) mà không cần quán chiếu tầng thiền (jhāna).
Phù hợp với các tạng Pāli và Chú giải đó, tôi đã trình bày phương pháp quán chiếu minh sát (vipassanā) sau khi xuất thiền (jhāna) trong cuốn sách “Lý do thực hành thiền” (Kammaṭṭhāna).
Nếu một người vừa có kiến thức uyên bác về kinh điển, vừa thấu hiểu về minh sát (vipassanā), thì điều này sẽ trở nên vô cùng rõ ràng, không có gì đáng để nghi ngờ.
Loại định (samādhi) sanh khởi trong khi quán chiếu minh sát (vipassanā) các hành pháp tạp mạn (pakiṇṇakasaṅkhārā) như vậy được gọi là sát–na định (khaṇika–samādhi).
Nó được gọi là định chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc, tại mỗi thời điểm quán chiếu.
Trong khi thực hành minh sát (vipassanā), nếu không có sát–na định (khaṇika–samādhi) này, tuệ minh sát (vipassanā–ñāṇa) không thể sanh khởi. Tuệ minh sát chỉ có thể sanh khởi khi có sự hiện diện của sát–na định mạnh mẽ này.
Đối với một hành giả thuần quán (Suddha–vipassanā–yānika), người thực hành thuần túy minh sát (vipassanā) mà không có nền tảng thiền (jhāna), thì vị ấy phải làm cho các tuệ minh sát (vipassanā–ñāṇa) sanh khởi bằng chính sát–na định minh sát (vipassanā–khaṇika–samādhi) này để đạt đến Thánh Đạo và Quả (Ariya–magga–phala).
Định minh sát (vipassanā–samādhi) này không phải là việc quán chiếu một đối tượng duy nhất.
(Như đã được chỉ ra rằng: “Phải biết một cách trực diện và toàn diện”)
Hành giả phải quán chiếu tất cả mọi đối tượng khởi sanh rõ rệt. Tuy nhiên, tại mỗi khoảnh khắc quán chiếu, vì tâm an trú dính chặt vào đối tượng đang được quán, nên không có sự phóng dật.
Điều này vô cùng rõ ràng đối với những người đã từng nỗ lực thực hành công việc minh sát (vipassanā) một cách hiệu quả.
Người viết thư chất vấn, có thể cho rằng, đã viết lá thư ấy vì không chỉ không thấu hiểu rõ ràng về sát–na định minh sát (vipassanā–khaṇika–samādhi) qua kinh điển mà còn chưa từng biết, từng thấy nó qua kinh nghiệm thực chứng của bản thân.
Chuyện này đã lâu lắm rồi, có lẽ cũng đã gần mười năm. Vì không biết địa chỉ của người ấy nên tôi đã không hồi âm.
Tôi không thể nói được liệu đến tận bây giờ người ấy có còn cố chấp với quan điểm đó hay không. Nếu vẫn còn cố chấp với quan điểm như vậy, thì đó quả là một nguyên nhân có thể trở thành chướng ngại cho con đường (maggantarāya).
⚡️
Trích từ bài giảng về kinh Sallekha của Ngài Mahasi Sayadaw, do Ngài Tharmanaykyaw Sayadaw biên soạn trong tuyển tập “Những Quan Điểm Đặc Sắc của Ngài Mahasi Sayadaw”
⚡️
Dhamma Guṇaraṃsī Ashin Vimala – Thiền viện Zeyya Siddhi Cham Mye
–––––––––––––––
Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=3207146169435839&id=100004214615175&mibextid=ZbWKwL
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
