Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn

Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn.

https://www.facebook.com/share/p/19Vnoug6N5/

–––––––––––––––

Hành Không Phải Là Tự Ngã

Saṅkhārā bhikkhave anattā. Saṅkhārā ca h’ idaṁ bhikkhave attā abhavissaṁsu nayidaṁ saṅkhārā ābādhāya saṁvatteyyuṁ labbhetha ca saṅkhāresu evaṁ me saṅkhārā hontu evaṁ me saṅkhārā mā ahesun’ti. Yasmā ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā, tasmā saṅkhārā ābādhāya saṁvattanti; na ca labbhati saṅkhāresu ‘evaṁ me saṅkhārā hontu, evaṁ me saṅkhārā mā ahesun’ti.

Nầy chư Tỳ Khưu, hành (saṅkhārā) không phải tự ngã….”

Nơi đây nên ghi nhận rằng có hai loại hành (saṅkhāras): sự vật được cấu tạo, và sự vật cấu tạo.

Các sự vật được cấu tạo là những uẩn sanh khởi do nguyên nhân như

⒈ kamma (nghiệp, hay hành động có tác ý),

⒉ tâm,

⒊ điều kiện thời tiết và

⒋ vật thực.

Tức khắc sau khi thức tái sanh chấm dứt, những hiện tượng danh và sắc khởi sanh như hậu quả của nghiệp (kamma).

Vipāka (quả) là những loại thức và các tâm sở đồng phát sanh như hậu quả của nghiệp (kamma), và ý căn (hadāya vatthu), cùng với những phần nhạy của sắc pháp khởi sanh do nghiệp như mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, sanh khởi cùng một thế ấy.

Ðó là những sự vật được cấu tạo, hậu quả của những sinh hoạt tạo nghiệp (hành), và những sự vật ấy được gọi là hành quả, vipāka saṅkhāras, sanh khởi do nghiệp tạo điều kiện.

Cùng thế ấy, những đặc chất của sắc pháp sanh khởi do tâm, như co tay vào, duỗi tay ra, đi, đứng, di chuyển, cử động, ngồi, nói, cười v.v… được gọi là hậu quả của hành (vipāka saṅkhāras) sanh khởi do tâm.

Tâm và các tâm sở đồng phát sanh tương quan tạo duyên và được tạo duyên lẫn nhau. Như vậy có

① những hành, saṅkhāras, xem như nguyên nhân tạo điều kiện, và

② những hành, saṅkhāras, là hậu quả.

Ðặc chất vật lý do thời tiết tạo điều kiện là những hậu quả của hành do điều kiện thời tiết tạo duyên. Những đặc tánh vật chất khởi sanh do vật thực là hành quả do vật thực tạo duyên.

Sau cùng, tất cả những trạng thái tâm kế tiếp và các tâm sở đồng phát sanh là hành quả (vipāka saṅkhāras), tùy thuộc nơi những điều kiện tâm linh trước đó và những tâm sở đồng phát sanh để sanh khởi.

Tất cả những uẩn khởi sanh như thế do ⒈ kamma (nghiệp), ⒉ tâm, ⒊ điều kiện thời tiết, và ⒋ vật thực là hành quả, những sự vật được cấu tạo.

Ðiều nầy được tóm tắt thâu gọn trong công thức quen thuộc:

Sabbe saṅkhāra aniccā; sabbe saṅkhāra dukkhā.

Tất cả các hành (vật được cấu tạo) đều vô thường; tất cả các hành đều đau khổ, dukkha.

[* Những hành, hay vật được cấu tạo, saṅkhāras, tức những sự vật tự nó không hiện hữu, mà phải có gì khác tạo điều kiện (duyên) mới hiện hữu.]

Những vật ấy là sắc uẩn và danh uẩn biểu hiện nơi giác quan, năm nhóm bám níu mà ta phải nhận thức bằng tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã.

Trong công thức trên Ðức Thế Tôn dạy ta nên thấy nó như vậy.

Ðể có thể thấy được dưới ánh sáng như vậy, ta phải cẩn trọng ghi nhận mỗi khi những uẩn nầy phát hiện.

Trong khi quán sát, vì tâm an định càng tăng cường vững chắc, ta hay biết rằng các uẩn không ngừng khởi sanh và tan biến.

Trùng hợp với lời dạy của Bản Chú Giải, Hutvā abhāvato – Nó là vô thường vì khi vừa phát sanh liền hoại diệt” – và udayabbaya paṭipīḷanato – Nó là đáng sợ, vì làm cho ta khó chịu bằng cách luôn luôn sanh và diệt.” Ðó là suy niệm đúng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn.

Có những người làm tổn hại Phật Pháp bằng cách dạy nghịch hẳn những gì Ðức Phật dạy.

Trong công thức trên – sabbe saṅkhāra anicca – họ không dạy rằng danh từ saṅkhāra có nghĩa là “những sự vật được cấu tạo” như được giải thích ở trên mà theo họ, có nghĩa là “những sinh hoạt”.

Như vậy, theo họ, công thức trên có nghĩa “Tất cả những sinh hoạt là đau khổ.” Do đó họ khuyên dạy chống lại tất cả mọi sinh hoạt như bố thí, trì giới và hành thiền. Họ nói rằng các sinh hoạt ấy chỉ tạo đau khổ, dukkha. Họ khuyên nên giữ tâm để yên như vậy.

Những người không hiểu biết và không nhiệt tâm chuyên cần, sẵn sàng chấp nhận lời khuyến dạy trên, nhưng đối với những ai khác, dầu ít hiểu biết giáo pháp, thật hiển nhiên là nghịch hẳn với những lời dạy của Ðức Phật.

Chấp nhận những lời dạy tương tợ có nghĩa là bác bỏ giáo huấn của Ðức Thế Tôn. Một khi bác bỏ giáo huấn của Ðức Phật tức nhiên ta đã ra ngoài Phật Giáo, và đó là điều đáng lo ngại.

Trong kinh điển Pāli, sabbe saṅkhāra dukkhā, danh từ saṅkhāra, hành, có nghĩa là “những sự vật được cấu tạo”, là quả của những điều kiện quyết định, không phải là “những sự vật cấu tạo”, không phải là “sinh hoạt” hay “cố gắng”.

Tất cả những saṅkhāras, hành, tức những sự vật được cấu tạo, phải được suy niệm là vô thường và đau khổ.

Diễn dịch rằng saṅkhāra ở đây là những sinh hoạt tạo thiện nghiệp là sai. Ðiều cần phải làm ở đây là thận trọng ghi nhận và quán sát tất cả các uẩn trong thân cho đến khi thấy rõ bản chất thật sự của nó và phát triển tâm buông xả, không chấp thủ vào nó.

Ý Nghĩa Của Saṅkhāra (Hành) Theo Bài Kinh Này

–––––––––––––––

Danh từ saṅkhāra, hành, như được mô tả đến đây – “sự vật được cấu tạo”, khởi sanh do kamma (nghiệp), tâm, điều kiện thời tiết và vật thực – không đúng với ý nghĩa của danh từ trong bài Kinh nầy.

Theo bài Kinh nầy, saṅkhāra hàm ý là những “sự vật cấu tạo”, một trong năm uẩn, tức hành uẩn, hay sinh hoạt tâm linh, và chính những sinh hoạt tâm linh nầy tạo nghiệp, kamma.

Phẩm Khandhavagga trong bộ Saṁyutta Nikāya, Tạp A Hàm, giải thích như sau: cái gì đưa đến sinh hoạt của thân, khẩu, ý là saṅkhāra, hành uẩn.

Trong năm uẩn, SẮC UẨN có đặc tính biến chuyển đổi thay hay trở thành một cái gì khác do những hoàn cảnh đối nghịch. Sắc là vô tri giác, không thể tự mình đưa đến sinh hoạt hay biến đổi mà chỉ là một khối bất động.

Chính sinh hoạt của hành uẩn diễn đạt ra ngoài bằng những cử động của cơ thể vật chất, và cho thấy hình như thân làm.

THỌ UẨN kinh nghiệm những thọ cảm (vedanā), thọ lạc, thọ khổ, hay thọ vô ký. Chính thọ tự nó không tạo nên hành động thiết thực.

TƯỞNG UẨN cũng không thể tạo nên hành động mà chỉ hay biết, nhận ra hay hồi nhớ sự vật, giống như người thơ ký trong văn phòng, ghi nhận dữ kiện để về sau tham khảo.

THỨC UẨN chỉ hay biết, cảm nhận, thấy hình sắc, nghe âm thanh v.v… không tạo hành động.

Chính HÀNH UẨN saṅkhāra làm phận sự đưa đến hành động bằng thân, khẩu hay ý, như đi, đứng, ngồi, nằm, co vào, duỗi ra, di động, cười, nói, suy nghĩ, nhìn hay lắng nghe.

Ý muốn đi, muốn đứng, muốn ngồi, hay muốn ngủ là chức năng của hành uẩn (saṅkhāra). Tất cả ba loại hành động, bằng thân, khẩu, và ý đều do hành uẩn saṅkhāra thúc đẩy và sắp xếp.

① Nghĩ rằng tất cả những sinh hoạt ấy đều do một tự ngã thực hiện là tà kiến thấy cái ta trong hành uẩn, và được biết là chấp thủ vào “tạo tác”, KĀRAKA ATTĀ.

② Nghĩ rằng tự ngã thực hiện tất cả những sinh hoạt, an trú thường xuyên trong thân như một thực thể sống, là tà kiến NIVĀSĪ ATTĀ, chấp thủ vào “tự ngã liên tục”.

③ Nghĩ rằng tự ngã nầy, tức cái thực thể sống trong thân ta, có thể tự ý hoạt động, rằng những hành động của nó tùy thuộc nơi ý muốn của ta là SĀMI ATTĀ, chấp thủ vào “tự ngã kiểm soát”.

Ta bám vào hành uẩn bằng cả ba lối chấp thủ.

Tuy nhiên trong thực tế không có tự ngã, không có một thực thể sống để bám vào, chỉ có những tiến trình thiên nhiên diễn tiến tùy duyên, theo những điều kiện và những trường hợp của chính nó.

Ðức Thế Tôn dạy rằng việc làm của hành uẩn, saṅkhāra, không phải là hoạt động của một thực thể sống.

Theo quan điểm thông thường, hình như có một thực thể sống thực hiện những hành động đi, đứng, và ngồi, nhưng Ðức Thế Tôn bác bỏ sự tin tưởng ấy như sau:

“Nầy chư Tỳ Khưu, nếu hành là tự ngã, là chính ta, ắt nó không gây đau khổ cho ta và ta có thể sai bảo, ‘Hành phải như thế nầy (tất cả đều có tánh cách thiện), hành phải không như thế kia (bất thiện)’ và có thể thu xếp hành theo ý muốn của ta.”

Saṅkhāras, hành, là những trạng thái tâm hay tâm sở do cetanā, tác ý, dẫn đầu.

Có tất cả năm mươi hai tâm sở. Ngoài hai tâm sở thọ và tưởng, còn lại năm mươi, chung hợp cấu thành hành uẩn, saṅkhārakkhandha.

Trong những bài giảng của tạng Kinh, chỉ có cetenā, tác ý, là đặc biệt tiêu biểu cho những sinh hoạt của hành, saṅkhāra, nhưng theo Abhidhamma, tạng Luận thì còn có những tâm sở khác cũng có thể tạo nghiệp (kamma), như sự chú ý (manasikāra), tâm sở tầm (vitakka), sát (vicāra), phỉ (pīti), tham (lobha), sân (dosa), si (moha), không–tham, không–sân và không–si.

Năm mươi loại tâm sở nầy của hành uẩn cũng có nhiệm vụ đưa đến những sinh hoạt như đi, đứng, ngồi, ngủ, co vào, duỗi ra, cười, và nói.

Những hành động nầy cũng như những sinh hoạt tâm linh khác như suy tư, nhãn thức, và nhĩ thức cũng do hành uẩn đưa đến và hướng dẫn.

Hành Uẩn Cưỡng Chế Bằng Cách Nào?

–––––––––––––––

Ðức Thế Tôn khuyến khích ta nên suy tư như thế nầy: Nếu hành uẩn là tự ngã ắt nó không gây phiền não, làm cho ta khó chịu.

Trong thực tế rõ ràng nó cưỡng chế ta bằng nhiều cách.

Khi những khát vọng hay tham ái làm cho ta trằn trọc suy tư thì ta trở nên mỏi mệt, kiệt sức và âu sầu phiền muộn.

Khi thốt ra những lời đáng lẽ không nên nói thì ta cảm nghe ngượng ngùng bối rối.

Nếu vi phạm tội hình sự, ắt ta bị hành phạt tù tội.

Lòng tham ái thiêu đốt và làm cho chúng ta mất ăn mất ngủ.

Khi có những hành vi bất thiện như trộm cắp hay dối gian láo xược ta sẽ bị sa đọa vào những khổ cảnh và phải chịu khổ sở cùng cực.

Cùng thế ấy, hành liên kết với sân hận sẽ đưa đến những hành động và lời nói gây nên tình trạng kiệt lực và đau khổ.

Hành liên kết với si mê, ngã mạn, tà kiến, cũng dẫn đến tình trạng kiệt lực và đau khổ trong kiếp hiện tại và mở đường đưa vào khổ cảnh.

Ðó là phương cách mà hành cưỡng chế ta.

Nếu hành là tự ngã nó sẽ không gây đau khổ cho ta dường thế ấy.

Nếu hành là tự ngã ắt ta có thể thu xếp và tổ chức như thế nào chỉ có những sinh hoạt trong sạch tạo thiện nghiệp đưa đến phước báu, chớ không bao giờ có những hành vi tạo bất thiện nghiệp đưa đến những tình trạng khổ đau.

Trong thực tế không thể thu xếp để chỉ có những sinh hoạt trong sạch như ý ta muốn.

Có thể chúng ta phải tự đặt mình vào những hoàn cảnh khó khăn, phải làm những việc không nên làm, phải nói những lời không nên nói, hay suy tư về những việc không nên nghĩ đến.

Như thế rõ ràng ta không thể kiểm soát hay sắp xếp làm cho hành phải như thế nào theo ý muốn, rõ ràng hành không phải là tự ngã.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề Ðức Thế Tôn dạy:

“Nầy chư Tỳ Khưu, hành không phải là tự ngã, không phải là phần nòng cốt bên trong ta. Vì lẽ ấy, nó có chiều hướng gây đau khổ buồn phiền. Lại nữa ta không thể thu xếp và sai bảo: Hành phải như thế nầy, hay phải không như thế kia.”

Như vậy, hành không phải là tự ngã, không có thể chất thật sự, mà biến đổi chảy trôi tùy thuộc nguyên nhân và điều kiện, nhân và duyên, do đó gây cho ta phiền não.

Nó cưỡng chế ta như thế nào đã được mô tả ở phần trên.

Vì giao du với bạn bè hư hèn, vì bị những vị thầy xấu dẫn dắt và vì có những thái độ tâm linh sai lầm, ta làm, nói và suy tư những điều không nên làm, không nên nói, hay không nên suy tư.

Trong đời sống hiện đại ta có thể sa ngã say đắm trong những thói hư tật xấu, trong những sinh hoạt đáng bị khiển trách và bất hợp pháp như say sưa, nghiện ngập, hút xách cờ bạc.

Cũng vì tham ái hay sân hận ta thốt ra những lời lẽ mà đáng lý ra không nên nói.

Những sinh hoạt xấu xa tương tợ đưa đến hậu quả là táng gia bại sản, sa vào hoàn cảnh tù tội và mất hết bạn bè thân thuộc.

Ðứng về phương diện đạo đức và luân lý, những hành động xấu như sát sanh và vọng ngữ tạo nhiều quả dữ có thể đưa đến trạng thái khổ sầu cùng cực trong những khổ cảnh.

Như vậy, hành uẩn cưỡng chế ta bằng cách tạo nghiệp bất thiện dẫn đến quả dữ.

(Còn tiếp)

Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 14/8/2025