Giác ngộ giải thoát khỏi luân hồi, chứng ngộ Niết bàn: liễu tri khổ thánh đế nhờ minh sát tu tập – quán sát ghi nhận sự sinh diệt năm thủ uẩn
GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT KHỎI LUÂN HỒI, CHỨNG NGỘ NIẾT BÀN: LIỄU TRI KHỔ THÁNH ĐẾ NHỜ MINH SÁT TU TẬP – QUÁN SÁT GHI NHẬN SỰ SINH DIỆT NĂM THỦ UẨN.
https://www.facebook.com/share/p/1C7VsisMk1/
Youtube
3 – Như lý tác ý chánh niệm về bản chất của ngũ thủ uẩn khi xúc chạm, ăn, nhìn nghe, ngửi, suy nghĩ.
–––––––––––––––
A – NĂM THỦ UẨN LÀ NHỮNG NỖI KHỔ ĐƯỢC MÔ TẢ TRONG KHỔ THÁNH ĐẾ, CHÂN LÝ ĐẦU TIÊN CỦA TỨ THÁNH ĐẾ
–––––––––––––––
[Trong những bài trước đã mô tả nỗi khổ trong Khổ thánh đế như: ① Sinh là khổ, ② Già là khổ, ③ Chết là khổ, ④ Sầu là khổ, ⑤ Bi là khổ, ⑥ Khổ thân là khổ, ⑦ Ưu là khổ, ⑧ Não là khổ, ⑨ Oan gia hội là khổ, ⑩ Ái biệt ly là khổ, ⑪Cầu bất đắc là khổ. Tiếp theo đây là mô tả về ⑫Năm thủ uẩn là khổ.]
NĂM THỦ UẨN
–––––––––––––––
Mười một loại khổ bắt đầu bằng khổ sanh (jāti) đến khổ do không đạt được những gì mình muốn (icchitabbalābha dukkha–cầu bất đắc khổ) chỉ phát sanh do có năm thủ uẩn (upādānakkhandhā); hay nói khác hơn chúng phát sanh do nương vào năm uẩn này. Vì thế, trong Kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật nói: Tóm lại, năm thủ uẩn này là khổ đế hay sự thực của khổ.
Sắc uẩn và các tâm hành (Danh) tạo thành đối tượng của thủ được gọi là Thủ Uẩn (upādānakkhandhā). Năm thủ uẩn gồm: (1) Sắc Uẩn (2) Thọ Uẩn (3) Tưởng Uẩn (4) Hành Uẩn và (5) Thức Uẩn.
Như vậy tất cả các chúng sanh hiện hữu chỉ với năm uẩn này. Họ chấp thủ thân của họ, vốn chỉ là sắc uẩn, xem nó như Tôi, thân của tôi, thường hằng, đẹp đẽ,…Vì vậy, sắc uẩn được gọi là thủ uẩn.
Các trạng thái tâm do thức (viññāṇa) và các tâm sở (cetasika) tạo thành cũng bị chấp thủ và xem chúng là Tôi, tâm của tôi, chính Tôisuy nghĩ, nói năng,..Do đó các trạng thái tâm hay Danh (nāma), cũng được gọi là các thủ uẩn. Đây là cách tham ái nảy sanh trên sắc uẩn và danh uẩn nói chung.
KHỔ DO NĂM THỦ UẨN
–––––––––––––––
Những nỗi khổ đáng sợ của sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não phát sanh là do năm thủ uẩn.
Bao lâu năm thủ uẩn này còn hiện hữu, những nỗi khổ đáng sợ ấy sẽ vẫn còn. Do đó, năm thủ uẩn tự thân chúng là khổ.
Tóm lại, do có sắc thân (rūpa), những khổ thân và khổ tâm dựa trên sắc phát sanh. Do có tâm biết (nāma), những khổ thân và khổ tâm dựa trên đó, phát sanh. Bởi thế, Danh và Sắc tạo thành năm thủ uẩn là Khổ.
Nói cách khác, những nỗi đau đớn không thể chịu đựng được của thân và tâm là những nỗi khổ nội tại Kinh điển Pāli gọi là dukkha–dukkha (khổ–khổ). Đây là những thống khổ mà mọi người đều sợ chúng.
Như vậy, thọ khổ (dukkha vedanā), hay thọ thủ uẩn là Khổ Đế đích thực.
Những cảm thọ lạc trong thân và tâm chỉ khả ý, khả lạc khi chúng tồn tại, nhưng khi chúng biến diệt, chúng được thay thế bằng sự khó chịu, sự không thoả mãn mà điều này dĩ nhiên là Khổ.
Loại khổ được gọi là Hoại Khổ (vipariṇāma dukkha) này xảy ra do sự thay đổi, chuyển đổi từ một trạng thái hay điều kiện dễ chịu sang một điều kiện khác tồi tệ hơn.
Đối với các bậc Thánh, những cảm thọ lạc giống như yêu nữ, làm cho người ta say mê với nhan sắc của nó và biến thành điên loạn. Đối với các vị, những cảm thọ lạc cũng là những thủ uẩn đáng sợ và tạo thành Khổ Đế thực sự.
Đồng thời, những cảm thọ lạc cũng vô thường và đòi hỏi phải nỗ lực tạo điều kiện liên tục để duy trì hiện trạng ấy. Điều này dĩ nhiên là phiền phức và do đó đối với bậc trí nó là cái khổ thực sự.
Đối với thọ xả (upekkhā vedanā), và các Thủ Uẩn còn lại — Tưởng, Hành, Thức, và Sắc cũng luôn luôn nằm trong trạng thái tạm bợ và trôi chảy không ngừng, do đó đối với các bậc Thánh chúng cũng thực sự đáng sợ.
Mặc dù phải dựa vào các Thủ Uẩn vô thường để sống và chờ chết nhưng nó thật nguy hiểm giống như đang sống trong căn nhà có những dấu hiệu đổ sụp bất cứ lúc nào vậy.
Bản chất tạm bợ của các Thủ Uẩn đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng để tạo điều kiện cho sự duy trì hiện trạng của chúng. Hành Khổ (Saṅkhāra Dukkha), cái khổ do phải làm công việc tạo điều kiện không ngừng, này cũng đáng sợ.
Do đó, đối với các Bậc Thánh, không chỉ những thọ lạc hay thọ bất lạc mà các thủ uẩn còn lại cũng là Khổ Đế.
Vì tất cả năm thủ uẩn đều được các Bậc Thánh xem như cái khổ thực sự khủng khiếp, nên khi kết luận sự định nghĩa về Khổ Đế, Đức Thế Tôn đã nói:
Tóm lại, năm thủ uẩn, hay gọi cách khác: Danh và Sắc, vốn có thể gây ra những chấp thủ như Tôi, của tôi, hay thường, lạc, ngã chỉ là Khổ.
THỦ VÀ THỦ UẨN
–––––––––––––––
Bây giờ chúng tôi sẽ mô tả sự khác nhau giữa Thủ (upādāna) và Thủ Uẩn (upādānakkhandhā). Upādāna hay thủ có nghĩa là bám chặt hay nắm chặt lấy một cái gì, có bốn loại thủ:
1. Kāmupādāna (dục thủ): Bám chặt vào các dục vọng. Nó chính là sự chấp thủ do ái dục sanh.
2. Diṭṭhupādāna (kiến thủ): Bám chặt vào những tà kiến. Đó là sự chấp thủ vào quan niệm cho rằng không có nghiệp và quả của nghiệp, không có đời sau, không có Đức Phật Toàn Giác, không có các bậc Thánh A–la–hán.
Tất cả những tà kiến khác, ngoại trừ Giới Cấm Thủ Kiến (Sīlabbata parāmāsa diṭṭhi) và Ngã Kiến (Attādiṭṭhi), đều nằm trong Kiến Thủ (Diṭṭhupādāna) này.
3. Sīlabbatupādāna (Giới Cấm Thủ), chấp giữ sai lầm vào những lễ nghi, tín điều, giáo điều.
Giới cấm thủ ở đây cần phải hiểu là sự thực hành một hình thức lễ nghi, tín điều nào đó không liên quan đến sự hiểu biết về Tứ Thánh Đế cũng không liên quan đến việc tu tập Bát Thánh Đạo, và với niềm tin cho rằng chúng sẽ đưa đến sự giải thoát khỏi luân hồi khổ, và dẫn đến sự an tịnh vĩnh hằng, thoát khỏi già, bệnh và chết.
Đây là một loại tà kiến (micchādiṭṭhi), chấp cái sai cho là đúng.
4. Attavādupādāna (Ngã Luận Thủ), chấp giữ luận thuyết cho rằng có linh hồn hay tự ngã.
Nó là sự chấp thủ vào niềm tin nơi một linh hồn, cái tôi, một thực thể sống. Kiến chấp này cũng đồng như thân kiến (sakāyadiṭṭhi) và ngã kiến (attadiṭṭhi).
>>>Trong bốn loại thủ này, dục thủ là dính mắc vào các dục vọng, ái dục. Ba thủ còn lại là các loại tà kiến khác nhau. Do đó chúng ta có thể tóm lại là chỉ có hai loại thủ, upādāna, tà kiến và ái dục.
Trong hai loại thủ này, một phát sanh từ ước muốn hưởng thụ các dục lạc và một do các tà kiến.
Những đối tượng của chấp thủ bao gồm các danh uẩn và sắc uẩn, và vì lẽ chúng có thể gây ra những chấp thủ vào đó như Tôi, của tôi, nên được gọi là thủ uẩn (upādānakkhandhā).
Sự chấp thủ xem đó như Tôi là ngã kiến (attadiṭṭhi), nó mở đường cho hai tà kiến còn lại.
Khi chấp thủ xuất phát từ ái dục, những đối tượng của nó thậm chí có thể không thuộc về bản thân người ấy, song bị chấp thủ vào đó như thể chúng là của họ.
Kinh Điển Pāḷi mô tả lòng mong muốn này dẫn đến sở hữu thủ như thế nào bằng những từ: etaṃ mama(cái này là của tôi).
Các uẩn Danh và Sắc có thể gây ra sự chấp thủ do lầm tin là tự ngã, thực thể sống, hay sở hữu của tôi được gọi là Thủ Uẩn.
Trong khi các danh uẩn không làm phát sanh chấp thủ do ái dục hay tà kiến thì chỉ gọi là các uẩn (khandhas), không phải thủ uẩn. Những danh uẩn ấy là thọ, tưởng, hành và thức siêu thế thuộc bốn Đạo và bốn Quả. Chúng chỉ tạo thành Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn và Thức Uẩn nên không được xếp vào các Thủ Uẩn.
Các loại sắc, thọ, tưởng, hành và thức hiệp thế mà chúng tôi đã đề cập nhiều lần ở trên là các uẩn vốn kích động sự chấp thủ nên được gọi là thủ uẩn.
Các danh uẩn và sắc uẩn hiệp thế là sắc, tâm và các tâm sở dục giới thể hiện ở sáu cửa giác quan đối với một người không có những thiền chứng mỗi lần họ thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ.
Đối với một người có những thiền chứng, các tâm thiền sắc giới và vô sắc giới (rūpavacara và arūpavacara jhāna cittas) cũng thể hiện tại ý môn ngoài các uẩn kể trên. Cả năm thủ uẩn này đều là Khổ Đế tạo thành những đối tượng thích hợp cho thiền minh sát.
Về sau Đức Thế Tôn đã mô tả chúng như các pháp (dhammas) cần phải được tuệ tri (hiểu một cách chính xác và đúng đắn) bằng minh sát trí, và đạo trí.
Trong phần ba của bài giảng này chúng tôi đã định nghĩa Chánh Kiến Đạo như trí (hiểu biết) về khổ đế, đó là, trí phát sinh do quán năm thủ uẩn này vậy.
Ở đây cần nhấn mạnh thêm rằng các danh và sắc thủ uẩn này phải được tự thân mỗi người hiểu rõ như khổ đế thực sự bằng cách thấy rõ tính chất sanh, diệt, vô thường, bất toại nguyện, vô ngã của chúng qua sự quan sát một cách chánh niệm sắc thủ uẩn (mắt và cảnh sắc, tai và âm thanh, v.v…) và danh thủ uẩn (nhãn thức, nhĩ thức, v.v…) khi chúng tự thể hiện ở sáu căn môn mỗi lần thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ.
Chúng tôi thật hài lòng khi thấy rằng một số hành giả ở trung tâm thiền (Mahāsi) này đã thấy được thực tại đúng như thực nhờ thực hành chánh niệm hợp với tinh thần Tứ Niệm Xứ, đó là, ghi nhận từng thể hiện (của danh sắc) khi nó xảy ra ở sáu cửa giác quan.
Họ nên tự mừng cho mình là đã biết được Pháp như Đức Thế Tôn đã dạy: Tóm lại, năm thủ uẩn là khổvà nên cố gắng một cách tích cực hơn nữa để đạt đến tri kiến hoàn thiện.
Để tóm tắt, chúng tôi sẽ duyệt lại 12 loại Khổ Đế để giúp cho trí nhớ của quý vị:
1. Sanh là khổ.
2. Già là khổ.
3. Chết là khổ.
4. Sầu là khổ.
5. Bi là khổ.
6. Khổ thân là khổ.
7. Khổ tâm hay ưu là khổ.
8. Não là khổ.
9. Gần người, vật đáng ghét là khổ.
10. Xa người, vật yêu mến là khổ.
11. Mong muốn thoát khỏi già, bệnh, chết và các loại khổ khác nhưng không thực hành Bát Thánh Đạo, mong muốn đó thực là vô ích vì nó sẽ không bao giờ thành tựu. Như vậy mong muốn đạt được những gì không thể đạt được cũng là khổ. Khao khát những gì không thể đạt được trong thế gian này cũng là khổ.
12. Tóm lại, mười một loại khổ đã mô tả ở trên, và năm uẩn vốn khích động những chấp thủ như Tôi, của tôi, thực sự là Khổ Đế.
–––––––––––––––
B – LIỄU TRI KHỔ THÁNH ĐẾ NHỜ MINH SÁT TU TẬP: QUÁN SÁT GHI NHẬN SỰ SINH DIỆT NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC XÚC CHẠM – KHI ĂN – KHI THẤY – KHI NGHE – KHI NGỬI – KHI NGHĨ.
–––––––––––––––
… NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ: Mười một loại khổ bắt đầu bằng khổ sanh (jāti) đến khổ do không đạt được những gì mình muốn (icchitabbalābha dukkha – cầu bất đắc khổ) chỉ phát sanh do có năm thủ uẩn (upādānakkhandhā); hay nói khác hơn chúng phát sanh do nương vào năm uẩn này.
Vì thế, trong Kinh Chuyển PhápLuân, Đức Phật nói: Tóm lại, năm thủ uẩn này là khổ đế hay sự thực của khổ.
Sắc uẩn và các tâm hành (Danh) tạo thành đối tượng của thủ được gọi là Thủ Uẩn (upādānakkhandhā).
Năm thủ uẩn gồm: (1) Sắc Uẩn (2) Thọ Uẩn (3) Tưởng Uẩn (4) Hành Uẩn và (5) Thức Uẩn.
Như vậy tất cả các chúng sanh hiện hữu chỉ với năm uẩn này. Họ chấp thủ thân của họ, vốn chỉ là sắc uẩn, xem nó như Tôi, thân của tôi, thường hằng, đẹp đẽ,…Vì vậy, sắc uẩn được gọi là thủ uẩn.
Các trạng thái tâm do thức (viññāṇa) và các tâm sở (cetasika) tạo thành cũng bị chấp thủ và xem chúng là Tôi, tâm của tôi, chính Tôisuy nghĩ, nói năng,..Do đó các trạng thái tâm hay Danh (nāma), cũng được gọi là các thủ uẩn.
Đây là cách tham ái nảy sanh trên sắc uẩn và danh uẩn nói chung.…
… GHI NHẬN ĐÚNG NHƯ THỰC NĂM UẨN LÀ KHỔ ĐỂ BUÔNG BỎ CHẤP THỦ: Để giúp quý vị hiểu được mục đích của việc ghi nhận từng hiện tượng, chúng tôi lập ra những nguyên tắc căn bản của việc thực hành minh sát như sau:
1. Tu tập minh sát bằng cách quán cái gì?
– Bằng cách ghi nhận đúng như chúng thực sự là năm uẩn vốn có thể gây ra sự chấp thủ.
2. Khi nào và vì mục đích gì chúng (năm uẩn) phải được ghi nhận ?
– Chúng phải được ghi nhận vào sát na sanh để cắt đứt sự chấp thủ.
Vì nếu không ghi nhận vào sát na sanh sẽ mở đường cho sự chấp thủ vào chúng như thường, lạc hay ngã.
Ngoài việc xua tan chấp thủ, việc ghi nhận năm uẩn mỗi lần chúng khởi lên sẽ phát triển được minh sát trí rõ ràng vào bản chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng.
Ở đây, vào sát na sanhcó nghĩa là vào lúc thấy hay nghe…và mỗi lần chúng khởi lênbiểu thị mỗi hành động thấy, nghe…khi nó xảy ra.
…
1 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC XÚC CHẠM
–––––––––––––––
Xúc giác bao hàm một phạm vi rộng lớn. Khắp toàn thân của một người, bất kỳ chỗ nào thịt và máu còn trong điều kiện tốt, sắc thần kinh thân (kāyapasāda rūpa) hay bề mặt cảm giác, làm phát sanh xúc giác, có mặt.
Cả ở trong thân: trong thịt, trong máu, trong các cơ bắp, trong xương lẫn ở ngoài thân: trên da, yếu tố nhạy cảm này lan truyền không chừa một điểm nhỏ nào.
Chỗ nào yếu tố nhạy cảm này có mặt, xúc giác có thể cảm giác. Vào lúc xúc chạm, yếu tố nhạy cảm vốn có khả năng nắm bắt thân xúc, nổi bật. Nó hiển hiện như một chỗ va chạm chứ không phải như bất kỳ một hình dạng hay hình thù nào.
Cũng vậy, những phần nhạy của tai, mũi, và lưỡi cũng trở nên rõ rệt như những chỗ xúc chạm ở đây khả năng phán đoán về sự nghe, ngửi và nếm được phát triển.
Vào lúc va chạm thân xúc cũng nổi bật, nó có thể là một trong ba yếu tố (của tứ đại): ⒈ đất (pathavī), ⒉ lửa (tejo), ⒊ gió (vāyo).
⒈ Sự cứng, thô, mịn, và mềm mà một người cảm nhận là địa đại (pathavī);
⒉ cảm giác nóng, hay ấm hoặc lạnh là hoả đại (tejo);
⒊ sự căng cứng, sức ép đẩy, chuyển động là phong đại (vāyo).
Những cảm giác xúc chạm như vậy có thể phát sanh như hệ quả của sự ma–xát giữa những đại chủng khác nhau trong thân; hay do sự tiếp xúc với quần áo, giường chiếu, chỗ ngồi, đất, nước, lửa, gió hay sức nóng của mặt trời, bên ngoài thân.
Những va chạm như vậy tạo ra những xúc giác rất sinh động. Thức biết sự xúc chạm (hay thân thức) bao gồm thọ lạc hay thọ khổ; nhận thức hay tưởng về sự va chạm, sự vận dụng ý chí và hướng tâm để hoàn tất hành động xúc chạm và chỉ biết rằng một sự xúc chạm đã được thiết lập.
Trong sự xúc chạm này thọ lạc hay thọ khổ đặc biệt sinh động. Cái đau ở thân là thọ khổ (dukkhavedanā) phát sanh do sự xúc chạm không vừa ý.
Vào lúc xúc chạm, nếu không chánh niệm để thấy thực tại đúng như thực, sẽ dẫn đến tình trạng chấp thủ vào những đối tượng nổi bật vào lúc ấy như Tôi, của tôi.
Vì lý do đó, chỗ xúc chạm, bề mặt cảm giác (yếu tố nhạy cảm hay thân tịnh sắc), cảm giác của sự xúc chạm (thọ) và biết rằng một sự xúc chạm đã xảy ra, gọi là thủ uẩn (upādānakkhandhā).
Tóm lại:
1. Vào lúc xúc chạm, bề mặt cảm giác và sự va chạm của xúc là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
2.Thọ lạc hay thọ khổ của xúc là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
3. Nhận thức hay ghi nhớ xúc là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
4. Vận dụng ý chí và xoay sự chú ý để hoàn tất hành động xúc chạm là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
5. Chỉ biết rằng một xúc đã xảy ra là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā)
2 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC ĂN
–––––––––––––––
Vào lúc biết vị do ăn, rõ ràng phải có ⑴ lưỡi, vị (tức sắc), và ⑵ thức biết vị. Trong thức biết vị này có ⑶ thọ lạc hay thọ khổ về vị, ⑷ sự nhận thức hay nhớ lại vị tức tưởng, ⑸ sự vận dụng ý chí và xoay sự chú ý hướng về đối tượng (tức hành) để hoàn tất công việc ăn và chỉ biết vị.
Không ghi nhận ‘ăn’, ‘ăn’ và lúc ăn và không thấy hiện tượng ăn đúng như thực sẽ dẫn đến sự chấp thủ vào nó như Tôi, của tôi, v.v…
Do sự có thể xảy ra của những chấp thủ này, lưỡi, vị và thức biết vị được gọi là thủ uẩn (upādānakkhandhā).
Tóm lại:
1. Vào lúc ăn ‘lưỡi’ và ‘vị’ là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
2. Thọ lạc hay thọ khổ của vị là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
3. Nhận thức hay ghi nhớ vị là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
4. Vận dụng ý chí để nếm và xoay sự chú ý hướng về đối tượng của sự nếm là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
5. Chỉ biết vị là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Trong khi ăn thức ăn, viên một miếng thức ăn trong tay trong trường hợp ăn bốc, hoặc múc một muỗng thức ăn nếu ăn bằng muỗng, đưa lên (miệng), bỏ vào trong miệng, và nhai thức ăn; tất cả những hành động này liên quan tới sự hay biết cảm giác xúc chạm;
tuy nhiên, biết vị trên lưỡi trong khi nhai đồ ăn, là thiệt thức hay thức nếm. Như vậy, ghi nhận ‘nếm’, ‘nếm’ mỗi khi ăn thức ăn phải được thực hiện để thấy đúng như thực năm uẩn danh và sắc thể hiện vào lúc nếm và cố gắng giữ ở giai đoạn chỉ có sự nếm để không phát sanh sự chấp trước vào nó như Tôi, của tôi, hay thường, lạc, tịnh, v.v…
3 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC THẤY
–––––––––––––––
Nếu xét từng hiện tượng riêng biệt theo chi tiết, thủ uẩn (upādānakkhandhā) rất dễ nhận ra mỗi khi người ta thấy một đối tượng.
Cũng thế, mỗi khi nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, suy nghĩ, thủ uẩn (upādānakkhandhā) cũng nổi bật.
VÀO LÚC THẤY: con mắt thấy, đối tượng thấy và thức thấy rất dễ nhận ra.
Trong thức thấy (nhãn thức) này bao gồm thọ (lạc hay khổ) của cái thấy, tưởng hay sự nhận thức về đối tượng được thấy, nỗ lực và hướng tâm để hoàn tất hành động thấy và trí biết rằng một đối tượng vừa được thấy.
Những người không hành thiền minh sát hay những người hành minh sát nhưng chưa đến giai đoạn thấy rõ được tính chất vô thường, khổ, và vô ngã, vẫn chấp thủ vào con mắt và đối tượng thấy, v.v…
Họ xem cái nhìn của con mắt như Tôi (nhìn), hay như con mắt của tôi, hoặc thường, lạc…Khi họ thấy thân và tứ chi, sự dính mắc phát sanh: “Tôi thấy thân của tôi; đây là tay của tôi, nó luôn luôn hiện hữu (thường hằng).”
Khi thấy người khác, họ cũng thấy như có vẻ đó là một con người, một sinh vật vững bền. Do sự chấp thủ đã khởi lên với các hiện tượng như vậy, sắc của con mắt và sắc của đối tượng thấy (cảnh sắc) được gọi là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
Ngoài thọ lạc và thọ khổ trong trong cái thấy một đối tượng, cũng còn có thọ trung tính (bất khổ bất lạc) mà ở đây để tiết kiệm không gian chúng tôi không đề cập.
Thực sự ra những gì liên quan đến cảm thọ trung tính thiện đã được kể trong thọ lạc; và những gì liên quan đến thọ trung tính bất thiện đã được kể trong thọ khổ rồi.
Cả thọ lạc lẫn thọ khổ đều làm phát sanh sự chấp thủ: “Nó là Tôi; Nó là cảm thọ của tôi; Nó kéo dài mãi mãi; Tôi cảm thấy khoẻ; Tôi cảm thấy khủng khiếp.”
Do bị dính mắc theo cách này, thọ lạc và thọ khổ (có mặt) trong cái thấy một đối tượng được gọi là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
Khi nhận thức một đối tượng, sự chấp thủ cũng phát sanh: Tôi biết nó; Tôi không quên nó. Vì thế nó được gọi là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
Vận dụng ý chí để thấy một đối tượng là Cetanā (Tư). Trong từ vựng kinh điển, nó được gọi là sự xúi giục, sự thúc đẩy, sự thôi thúc. Tuy nhiên ý định hay tư biểu thị ý nghĩa của nó rõ ràng hơn.
Tác ý (manasikāra), đi cùng với tư (cetanā), là suy nghĩ về hay hướng tâm về một đối tượng.
Rồi sau đó có xúc (phassa) xen vào nữa, nhưng vì cetanā và manasikāra là các yếu tố nổi bật nên ở đây chỉ đề cập hai tâm sở này.
Hai tâm sở tư (ý định) và tác ý (hướng tâm) thuộc hành uẩn có liên quan trong hành động thấy và có sự dính mắc vào cái thấy như Tôi thấy…nên nó được gọi là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
Từ Saṅkhāra ở đây có nghĩa là điều kiện; trong trường hợp của cái thấy, nó có nghĩa là tạo ra những những điều kiện để hoàn tất hành động thấy.
Chỉ biết rằng một đối tượng đã được thấy là nhãnthức, hành động này cũng có sự chấp thủ vào đó như Tôi thấy, Tôi biết, cái Tôi đang thấy là trường cửu. Do sự chấp thủ như vậy có thể xảy ra nên thức được gọi là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Tóm lại:
1. Vào lúc thấy ‘con mắt và đối tượng của sự thấy (cảnh sắc) là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
2. Thọ lạc hay thọ khổ có mặt là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
3. Nhận thức hay ghi nhớ đối tượng là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
4. Ý muốn thấy và xoay sự chú ý đến đối tượng là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
5. Chỉ biết rằng một đối tượng đã được thấy là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
>>> Mỗi lần thấy một đối tượng ghi nhận ‘thấy’, ‘thấy’ là để giúp người hành thiền thấy ra năm uẩn danh và sắc đã nói đúng như chúng thực sự là và sau khi đã thấy được chúng, hãy giữ ở giai đoạn chỉ có cái thấy và không để bị chấp thủ vào chúng như Tôi, của tôi, hay như thường, lạc, tịnh…
4 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC NGHE
–––––––––––––––
Vào lúc nghe, hiển nhiên phải có tai còn tốt để nghe; có âm thanh có thể nghe rõ và cũng phải có thức biết rằng một âm thanh đã được nghe.
Trong thức nghe (nhĩ thức) này có thọ lạc và khổ khi nghe, có tưởng về âm thanh, có tư (vận dụng ý chí) và tác ý (hướng tâm) đến âm thanh để hoàn tất hành động nghe và chỉ biết rằng một âm thanh đã được nghe.
Những người không có cơ hội thực hành chánh niệm, và do đó không có sự hiểu biết về thực tại đúng như thực, chấp thủ vào các hiện tượng (dhamma) nổi bật vào sát–na nghe như Tôi, của tôi, v.v…
⒈ Chính do khả năng có thể xảy ra của những chấp thủ này, tai và sắc âm thanh được gọi là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
⒉ Thọ lạc hay thọ khổ phát sanh cùng với sự nghe là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
⒊ Tưởng về âm thanh là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
⒋ Vận dụng ý chí để nghe một âm thanh và hướng tâm đến âm thanh là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
⒌ Chỉ biết rằng một âm thanh đã được nghe là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Tóm lại:
1. Vào lúc nghe ‘tai’ và ‘âm thanh’ là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
2. Thọ lạc hay thọ khổ có mặt trong cái nghe là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
3. Nhận thức hay ghi nhớ âm thanh là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
4. Ý muốn nghe và xoay sự chú ý đến đối tượng là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
5. Chỉ biết rằng một đối tượng đã được nghe là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
>>> Mỗi lần nghe một âm thanh, ghi nhận ‘nghe’, ‘nghe’…là để giúp hành giả thấy ra năm uẩn danh và sắc đã nói này đúng như thực và sau khi đã nghe một âm thanh, cố gắng giữ ở giai đoạn chỉ có cái nghe và không để bị chấp trước vào nó như Tôi, của tôi, hay thường, lạc, tịnh, v.v…
5 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC NGỬI
–––––––––––––––
Vào lúc ngửi, rõ ràng phải có mũi, có mùi và thức biết mùi.
Trong thức ngửi (tỷ thức) này có thọ lạc và thọ khổ, có sự nhận thức về mùi, có sự vận dụng ý chí để ngửi và để hướng sự chú ý đến đối tượng ngửi và chỉ biết mùi.
Không ghi nhận ‘ngửi’, ‘ngửi’, mỗi khi ngửi và không thấy hiện tượng ngửi đúng như thực sẽ dẫn đến sự chấp thủ vào nó như Tôi, của tôi…Do sự có thể xảy ra của những chấp thủ này, mũi, mùi, và thức ngửi được gọi là Thủ Uẩn (upādānakkhandhā).
Tóm lại:
1. Vào lúc ngửi ‘mũi’ và ‘mùi’ là Sắc Thủ Uẩn(rūpa uppādānakkhandhā).
2. Thọ lạc hay thọ khổ có mặt trong sự ngửi là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
3. Nhận thức hay ghi nhớ mùi là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
4. Ý muốn ngửi và xoay sự chú ý đến đối tượng là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
5. Chỉ biết mùi là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
>>> Mỗi lần ngửi một mùi, ghi nhận ngửi, ngửi là để thấy năm uẩn danh và sắc đúng như chúng thực sự là và sau khi đã ngửi mùi, hãy cố gắng giữ ở giai đoạn chỉ có sự ngửi và không để bị chấp thủ vào nó như Tôi, của tôi, hay như thường, lạc, tịnh, v.v…
6 – NĂM THỦ UẨN VÀO LÚC NGHĨ
–––––––––––––––
Những hoạt động của tâm như suy nghĩ, tưởng tượng có phạm vi rất rộng và thường xuyên xảy ra. Trong lúc thức, tâm hầu như hoạt động không ngừng.
Ngay cả khi không có những đối tượng khả lạc và khả ái chung quanh, trí tưởng tượng vẫn làm cho chúng xuất hiện như thể đang thực sự hiện hữu.
Năm triền cái, tham dục, sân hận, hôn trầm &thuỵ miên, trạo cử &hối quá, và nghi có liên quan đến những hoạt động của tâm hay tâm hành này.
Những tư duy hay suy tưởng về tham dục (kāma vitakka, dục tầm), sân hận (vyāpada vitakka, sân tầm) và não hại (vihimsa vitakka, hại tầm) cũng thế.
Trừ phi những hoạt động của tâm này được ghi nhận một cách chánh niệm, bằng không chúng có thể bị đồng nhất như là Tự Ngã (atta), một thực thể sống. Vì vậy, việc ghi nhận từng hoạt động của tâm khi nó xảy ra rất quan trọng.
Nếu phân tích kỹ, những hoạt động của tâm cũng là Năm Thủ Uẩn (upādānakkhandhā).
Suy nghĩ có thể được kèm theo bởi thọ hỷ (somanassa) hay thọ ưu (domanassa); hay suy nghĩ có thể phát sanh cùng với thọ xả (upekkhā vedanā).
Nếu không có chánh niệm ghi nhận ba loại thọ này khi chúng phát sinh, chúng có thể bị chấp thủ như Tôi cảm thấy vui, Tôi cảm thấy khoẻ, Tôi cảm thấy khốn khổ, Tôi cảm thấy thế này, thế nọ…. Do chúng có thể gây ra những chấp thủ như thế, ba loại thọ này được gọi là Thọ Thủ Uẩn (vedanā – upādānakkhandhā).
Kế tiếp, saññā hay Tưởng cũng rõ rệt, nó nhận ra đối tượng mà tâm đang chăm chú vào. Tưởng đặc biệt rõ rệt khi đang cố gắng nhớ những sự kiện để nói hay khi đang tính toán hoặc kiểm tra tài khoản. Liên quan đến Tưởng này, những khái niệm sai lầm có thể phát sanh như Tôi nhớ, Tôi có sự ghi nhớ tốt. Chính vì nó có thể làm phát sanh chấp thủ, nên nó được gọi là Tưởng Thủ Uẩn (saññā – upādānakkhandhā).
Vào lúc suy nghĩ hay vận dụng trí tưởng tượng, có Xúc (phassa);
Tầm (vitakka): sự khuynh hướng tâm về đối tượng;
Tác Ý (manasikāra): gắn chặt sự chú ý trên đối tượng;
Tư (cetanā): xúi giục và thúc đẩy, Sẽ làm theo cách này, sẽ làm theo cách nọ.
Vai trò của Cetanā (tư) đặc biệt rõ nét khi, chẳng hạn, một vấn đề quan trọng tình cờ xuất hiện trong tâm vào lúc nửa đêm và nó không thể kéo dài thêm được nữa. Lực thôi thúc của Cetanā (tư): Hãy đi ngay bây giờ để nói cho hắn biếtrất nổi bật.
Những ý nghĩ bất thiện có tham, sân, si, đi kèm trong khi những ý nghĩ thiện thì vô tham, vô sân, vô si, tín, niệm,…kèm theo, được phân biệt một cách rõ ràng.
Những tâm sở Xúc, Tư và Tác ý là những tác nhân kích động trách nhiệm cho sự sanh khởi của những tư duy (ý tưởng, sự tưởng tượng, khái niệm) tuần tự nối tiếp theo nhau.
Chúng cũng đứng đằng sau mọi hoạt động nói năng và chuyển động của thân như đi, đứng, ngồi, nằm, co, duỗi…Nói chung, sự kích động, thôi thúc, thúc đẩy liên quan đến những hoạt đông của thân, khẩu, và ý là Hành (saṇkhāra), yếu tố tạo điều kiện cho một hành động bằng cách nhắc bảo, xui khiến, hay trực tiếp,…
Vai trò tạo điều kiện hay làm duyên của Hành (saṇkhāra) này có thể dẫn đến tình trạng bị đồng nhất như một người, một thực thể sống và bám chặt vào đó như là Tôi.
Những ý niệm Tôi nghĩ, Tôi nói, Tôi đi, Tôi làmlà sự chấp thủ sai lầm vào yếu tố Hành (saṇkhāra) này. Và một sự chấp thủ như vậy được gọi là chấp thủ vào Ngã Sở Tác (Kāraka atta), tức chấp có người làm hành động. Do đó, các Hành: Xúc, Tư, Tác Ý…được gọi là Hành Thủ Uẩn (Saṇkha – Upādānakkhandhā).
Kế tiếp, vào lúc suy nghĩ, hiển nhiên cũng có thức hay biết hành động suy nghĩ.
Người Miến xem thức cùng với các tâm sở chỉ là Tâm (citta). Thức (hay biết) hành động suy nghĩ này rất thường bị quan niệm như Linh Hồn, Tự Ngã (atta) vì lý do đó nó cũng được gọi là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Ngoài ra, vào lúc suy nghĩ, sắc thân vốn cung cấp căn cứ cho tư duy cũng rõ rệt đến nỗi người không am tường cũng tin rằng chính sắc thân này suy nghĩ. Vì lý do đó, sắc thân vốn cung cấp căn cứ cho tư duy được gọi là Sắc Thủ Uẩn (rūpa upādānakkhandhā).
Đối tượng của tư duy có thể là sắc (rūpa), danh (nāma), hoặc chế định (paññatti), tên gọi, khái niệm (quan niệm). Chúng cũng là những đối tượng bị chấp thủ.
Cảnh sắc thuộc về Sắc Thủ Uẩn (rūpa upādānakkhandhā).
Cảnh danh được sắp dưới bốn loại Danh Thủ Uẩn (nāma upādānakkhandhā).
Chế định (paññatti) có thể được bao gồm trong sắc thủ uẩn hay danh thủ uẩn nào nó tương ứng.
Chẳng hạn, trong Yaṃ picchaṃ na labhatitampi dukkhamKhông được những gì mình muốn là khổ, thì không được những gì mình muốnkhông phải là sắc cũng không phải là danh; mà chỉ là chế định (paññatti).
Chú thích trong bộ Chú Giải Mūla Tikā về điểm này nói rằng mong muốn đối với cái không thể đạt được phải được xem là khổ (dukkha).
Chúng tôi đã phân tích kỹ về năm thủ uẩn hiển hiện rõ ràng vào lúc suy nghĩ.
Tóm lại:
1. Sắc thân tạo thành căn cứ cho tư duy vào lúc suy nghĩ là Sắc Thủ Uẩn (rūpa upādānakkhandhā).
2. Thọ lạc hoặc thọ khổ có mặt vào lúc tư duy là Thọ Thủ Uẩn (vedanā–upādānakkhandhā)
3. Nhận ra hay nhớ lại đối tượng của tư duy là Tưởng Thủ Uẩn (saññā–upādānakkhandhā).
4. Tâm hành thôi thúc và sự khuynh hướng để hoàn tất hành động suy nghĩ là Hành Thủ Uẩn (Saṇkha – Upādānakkhandhā).
5. Chỉ hay biết về sự suy nghĩ là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
>>>Điều quan trọng là phải nhận ra bản chất thực của tư duy bằng cách chánh niệm về nó mỗi lần suy nghĩ khởi lên.
Không ghi nhận nó với chánh niệm, và như vậy cũng không nhận ra bản chất thực của nó sẽ dẫn đến sự chấp thủ vào tư duy như Tôi (tư duy), (tư duy ấy) là của tôi, hay thường, lạc, tịnh,…
Phần lớn con người ngày nay hầu như luôn luôn dính mắc vào những pháp trần (đối tượng của tâm) này.
Những chấp thủ như vậy sẽ làm phát sanh những tiến trình tích cực của hữu (trở thành hay tái sanh), hợp với câu Thủ Duyên Hữu’ (upādānapaccayo bhava) của Pháp Duyên Sanh. Và trong mọi trạng thái hiện hữu mới, chờ đợi là già, bệnh, chết và sầu, bi, khổ, ưu, và não.
Tuy nhiên, nếu chánh niệm được phát triển trên mỗi sự sanh khởi của tư duy, bản chất vô thường, khổ và vô ngã thực sự của nó sẽ hiển hiện rõ ràng. Và sau khi đã biết được bản chất thực của nó, sự chấp thủ sẽ không phát sanh; chấp thủ không sanh, tiến trình tích cực của hiện hữu mới hay tái sanh sẽ không xảy ra.
Khi không có hiện hữu mới, khối khổ tiêu biểu bằng già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ được đoạn trừ.
Tất nhiên, sự diệt của khổ như kết quả của chánh niệm trên mỗi tư duy khi nó sanh khởi này chỉ là sự diệt nhất thời.
Nhưng nếu cứ liên tục thực hành chánh niệm và có được sự diệt tạm thời trên mỗi sát–na ghi nhận, thì vào lúc Thánh Đạo phát sanh, khối khổ ấy sẽ được đoạn trừ hoàn toàn.
Vì vậy, trong lúc bận rộn với bài tập ghi nhận sự phồng, xẹp, ngồi, đụng, nếu bất kỳ tư duy hay ý tưởng nào xen vào, nó phải được ghi nhận như suy nghĩ, suy nghĩhay ý tưởng, ý tưởng,…
Những phân tích chi tiết mà chúng tôi vừa trình bày ở trên sẽ chứng minh một cách rõ ràng rằng những gì nổi bật vào lúc thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ chỉ là năm thủ uẩn.
Đối với hàng phàm phu không thực hành bài tập chánh niệm này, vào lúc thấy, chủ thể thấy hiển nhiên là con người thực tế này và đối tượng bên ngoài của sự thấy hiển nhiên cũng là đàn ông, đàn bà, một con người…
Với hiện tượng nghe, ngửi, nếm…cũng cần hiểu theo cách tương tự như vậy.
Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ có năm thủ uẩn chứ không có một thực thể hay một con người nào.
Không có gì hiện hữu ở sáu khoảnh khắc thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và suy nghĩ ngoại trừ tự thân chúng. Chúng chỉ trở nên hiển hiện ở sáu khoảnh khắc này và những gì hiển hiện lúc đó chỉ là năm thủ uẩn.
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: Giảng Giải Kinh Chuyển Pháp Luân – Đại trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw.
FB LINKS: MAHASI SAYADAW – KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN GIẢNG GIẢI
https://www.facebook.com/share/PUYGmK9PBp2AWpAD/?mibextid=oFDknk
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB