Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo.
Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo.
https://www.facebook.com/share/p/1B4k35g67n/
–––––––––––––––
Khi rơi vào trạng thái chấm dứt mà không còn luyến ái, qua Thánh Ðạo đầu tiên (sotāpattimagga), hành giả thoát ra khỏi những hoặc lậu tà kiến (diṭṭhāsava, tà kiến lậu), thoát ra khỏi si mê liên hợp với hoài nghi và ngờ vực, và thoát ra khỏi mọi hình thức dục lạc thô kịch có thể đưa đến khổ cảnh. Ðó là giải thoát qua Dự lưu Quả, vốn là thành quả của Dự lưu Ðạo.
Khi đến giai đoạn chấm dứt qua Thánh Ðạo thứ nhì, Nhất Lai, có sự giảm suy dục lạc.
Ðến giai đoạn chấm dứt Thánh Ðạo thứ ba, Bất Lai, thoát ra khỏi mọi hình thức dục lạc vi tế cũng như mọi hình thức si mê.
Với giai đoạn chứng ngộ A La Hán Ðạo (arahattamagga ñāṇa, A La Hán Ðạo Tuệ) hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi hình thức ô nhiễm và hoặc lậu. Ðó là đúng theo lời dạy virāgā vimuccati.
Khi đã thoát hẳn ra khỏi mọi khát vọng và rơi vào tình trạng chấm dứt, phát sanh sự giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo. Sự giải thoát này được nhận thấy rõ ràng qua một tiến trình suy tư.
Suy Tư Của Vị A La Hán
–––––––––––––––
Tiến trình suy tư của một vị A La Hán được mô tả trong đoạn kết luận của bài kinh Anattalakkhana Sutta, Vô Ngã Tướng, như sau:
Vimuttasmiṁ vimuttamīti ñāṇaṁ hoti “khīnā jāti vusitaṁ brahmacariyaṁ kataṁ karaṇīyaṁ nāparaṁ ittattāyā’ti pajānātīti”.
Khi đã giải thoát, hành giả suy tư và hiểu biết rằng tình trạng giải thoát ra khỏi mọi ô nhiễm đã viên mãn thành tựu, và hành giả hiểu biết:
‘Sự sanh đã cạn nguồn (không còn sanh trở lại), Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất, không còn gì phải làm.’
Hành giả suy tư và hiểu biết như thế.
Ðó là như thế nào vị A La Hán suy tư trở lại thành tựu của Ngài. Nơi đây ta có thể thắc mắc, “Làm sao Ngài hiểu được rằng sự sanh đã cạn nguồn. Ngài không còn tái sanh nữa?”
Ngày nào còn tà kiến và ảo kiến liên quan đến danh uẩn và sắc uẩn, và còn luyến ái dính mắc vào đó, xem danh sắc là thường còn, lạc, và tự ngã thì sẽ còn trở thành, còn lặp lại đổi mới, tái sanh trở lại trong vòng quanh những kiếp sinh tồn.
Khi ta không còn si mê, đã thoát ra khỏi mọi tà kiến và ảo kiến, ắt cũng không còn luyến ái, không bám níu vào kiếp sinh tồn.
Vị A La Hán suy tư và hiểu biết tường tận rằng Ngài đã vượt hẳn ra khỏi mọi tà kiến và ảo kiến liên quan đến các uẩn và không còn bám níu vào đó nữa. Do đó Ngài thông hiểu rằng đối với Ngài sự sanh đã cạn nguồn, không còn trở lại. Ðó là suy tư về những ô nhiễm đã được loại bỏ và tận diệt.
Nơi đây, “Ðời Sống Thánh Thiện”, hay đời sống phạm hạnh (brahmacariya), có nghĩa là thực hành giới, định, tuệ (sīla, samādhi, paññā).
Tuy nhiên, nghiêm chỉnh trì giới hoặc trau giồi thiền định tự nó không giúp thành đạt mục tiêu cao siêu nhất. Mục tiêu tối thượng chỉ có thể thành tựu bằng cách ghi nhận những hiện tượng danh sắc mỗi khi nó phát hiện, chí đến lúc thành đạt Ðạo và Quả.
Do vậy, phải hiểu rằng “cuộc Sống Thánh Thiện đã được sống” có nghĩa là thiền tập [tuệ quán] đã được thực hành chí đến khi thành đạt mục tiêu tối thượng.
“Những gì phải làm” có nghĩa là thực hành thiền tập [tuệ quán] để thấu hiểu đầy đủ Tứ Diệu Ðế. Nhiệm vụ này được viên mãn hoàn tất với sự chứng đắc arahattamagga, A La Hán Ðạo.
Dầu sau khi tự mình đã thấy bản chất của sự chấm dứt qua ba Ðạo thấp hơn (Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm) và đã hiểu biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã, nhưng còn vài ảo kiến về tưởng uẩn và thức uẩn vẫn còn chưa được tận diệt.
Bởi vì những ảo kiến ấy nên vẫn còn thích thú, tham ái, và tin tưởng những hiện tượng là vui vẻ và thích thú. Căn cội của tham ái vẫn chưa được nhổ tận gốc rễ. Vì lẽ ấy đối với vị Thánh Bất Lai vẫn còn một vài khuyết điểm rất tế nhị.
Ðến giai đoạn arahattamagga, A La Hán Ðạo, Chân Lý về sự Ðau Khổ được thấu triệt trọn vẹn. Tất cả mọi ảo kiến về tưởng uẩn và thức uẩn đều tận diệt.
Bởi vì không còn ảo kiến, những khái niệm sai lầm về vui vẻ thích thú, không có cơ hội cho nguyên nhân tham ái khởi phát vì nó đã bị loại bỏ hoàn toàn. Nhiệm vụ hiểu biết Tứ Diệu Ðế đã được viên mãn thành tựu. Vì lẽ ấy khi suy tư, vị A La Hán thấy rằng không còn gì để làm, tất cả những gì phải làm đã viên mãn hoàn tất.
Trong đoạn kinh về những suy tư của vị A La Hán không có đoạn nào đề cập đến Ðạo, Quả, Niết Bàn và những ô nhiễm. Nhưng phải hiểu rằng những điểm ấy đã được suy nghiệm đến trước hết, rồi mới nghĩ đến các vấn đề khác.
Như vậy phải hiểu rằng đoạn suy tư “Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất” theo sau suy tư về Ðạo, Quả và Niết Bàn.
Ðoạn “Tâm đã được giải thoát, sự sanh đã cạn nguồn” chỉ được nghĩ đến sau khi suy tư về những ô nhiễm đã được tận diệt.
Những suy tư của các vị Nhập Lưu, Nhứt Lai và Bất Lai đã được trình bày trong bài giảng của Sư (Ngài Mahasi) về kinh Sīlavanta Sutta.
Tóm lược
–––––––––––––––
“Nhàm chán mệt mỏi, hành giả không còn ham muốn, thoát ly ra khỏi mọi khát vọng, và Thánh Ðạo phát sanh. Không khát vọng và Thánh Ðạo phát sanh đến mình, hành giả vượt thoát khỏi mọi trói buộc của ô nhiễm.
Cùng đến với trạng thái giải thoát hành giả suy tư rằng tâm mình đã giải thoát và hiểu biết: ‘Sự sanh đã cạn nguồn; Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất, không còn trở lại trạng thái trở thành này nữa.”
Những vị Trưởng Lão đọc tụng bài kinh này tại Hội Nghị và ghi chép đoạn cuối cùng như sau:
Idamavoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṁ abhinanduṁ. Imasmiñca pana veyyā karaṇasmiṁ bhaññamāne pañc–avaggiyānaṁ bhikkhūnaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsūti.
“Ðức Thế Tôn dạy như vậy. Hoan hỷ, Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu lấy làm thích thú lắng nghe những lời dạy của Ðức Thế Tôn. Lại nữa, trong lúc nghe thuyết giảng (hoặc chỉ vào đoạn cuối của bài giảng) tâm của Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu giải thoát ra khỏi mọi luyến ái và ô nhiễm.”
Trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, Ðức Koṇḍañña (Kiều Trần Như) đã đắc Quả Nhập Lưu vào canh đầu đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trong khi nghe thời Pháp Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta).
Chắc Ngài vẫn tiếp tục quán niệm, nhưng không tiến được đến mức chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán, mãi cho đến khi nghe được thời giảng bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng.
Ðức Vappa đắc Quả Nhập Lưu trong ngày đầu, hạ tuần tháng Bảy DL.,
Ðức Bhaddiya trong ngày thứ nhì,
Ðức Mahānāma trong ngày thứ ba,
Ðức Assaji trong ngày thứ tư.
Tất cả năm vị đều là bậc Nhập Lưu, và sau khi nghe kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, này đã quán chiếu và suy gẫm về ngũ uẩn, thấy rằng “Ðây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi”; rằng nó là vô thường, khổ và vô ngã. Các Ngài tuần tự đắc ba tầng tuệ cao hơn, tuệ này rồi đến tuệ khác, và tất cả năm vị đều trở thành A La Hán.
Theo Bản Chú Giải của sách Paṭisambhidā, các Ngài chỉ đắc Ðạo Quả A La Hán vào lúc nghe phần cuối cùng của bài giảng bằng cách suy niệm về lời dạy.
Lúc bấy giờ, cách nay 2,552 năm, tính lui lại từ năm 1963. Năm ấy, vào ngày thứ năm hạ tuần tháng Bảy D.L. sau thời giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, trên thế gian chỉ xuất hiện sáu vị A La Hán, năm trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu và Ðức Thế Tôn.
Ðây quả thật là một nguồn gợi cảm vô cùng thích thú nếu ta hình dung quang cảnh vườn Lộc Giả gần Vārānasī, nơi đó Ðức Thế Tôn mở lời thuyết giảng kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, trước Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đang chăm chú lắng tai nghe, và thành tựu Ðạo Quả A La Hán, chấm dứt mọi ô nhiễm. Chúng ta hãy hình dung quang cảnh này.
Hết Lòng Thành Kính Ðảnh Lễ Sáu Vị A La Hán
–––––––––––––––
Hai ngàn năm trăm năm mươi hai năm trước, vào ngày thứ năm hạ tuần tháng Bảy DL. Ðức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, cho Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu.
Lắng tai nghe thời Pháp và suy gẫm về lời giáo huấn, tất cả năm vị đều giải thoát ra khỏi mọi ô nhiễm, chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán.
Chúng con xin chắp hai tay lên trán, thành tâm kỉnh mộ đảnh lễ bậc Toàn Giác và Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, là sáu vị A La Hán đầu tiên vào thời buổi sơ khai của Phật Giáo, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi ô nhiễm.
Ước nguyện
–––––––––––––––
Ước nguyện tất cả quý vị độc giả, do tâm thành kính chăm chú lắng nghe bài giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, chuyên cần quán chiếu năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đúng theo lời dạy, ghi nhận ngay khoảnh khắc mà nó khởi sanh, nhận thức rằng “đây không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi,” và hiểu biết đúng rằng nó không ngừng sanh diệt, rằng nó là vô thường, khổ, vô ngã, và do đó sớm sủa thành tựu Niết Bàn, chấm dứt mọi đau khổ qua Ðạo và Quả.
Lành thay! Lành thay! Lành thay!
– Hết –
Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw
Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về Kinh Vô ngã tướng, Web
Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web
Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã, Web
Bài 4 – Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã, Web
Bài 5 – Thân Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web
Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web
Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web
Bài 8 – Thọ Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web
Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web
Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web
Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web
Bài 12 – Thức Là Vô Ngã, Web
Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác khi xuất hiện trên thế gian, Web
Bài 14 –Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web
Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web
Bài 16: Ngũ Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Vô Thường Khổ Vô Ngã, Web
Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường, Web Link
Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ, Web
Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web
Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web
Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Hành uẩn, Web
Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn, Web
Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web
Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web
Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web
Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web
Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web
Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web
Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web
Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web
Bài 31: Nibbinda Ñāṇa – Tuệ Nhàm Chán Là Gì? Tu Tập Vun Bồi Như Thế Nào?, Web
Bài 32: Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa), Web
Bài 33: Phát Triển Vuṭṭhānagāminī vipassanā – Tuệ Minh Sát Vượt Lên, Web
Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
