Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến
Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến.
https://www.facebook.com/share/p/1B5SCo6cUj/

–––––––––––––––
Chúng ta đã giải thích đầy đủ những câu hỏi trong giáo huấn đề cập đến sự chấp thủ ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xuyên qua ⑴ tham ái, ⑵ ngã mạn và ⑶ tà kiến. Giờ đây ta tiếp tục thảo luận đến phương cách quán chiếu nhằm rửa sạch ba loại chấp thủ ấy.
Mười Một Phương Cách Phân Tích Sắc Pháp
–––––––––––––––
Tasmātiha bhikkhave yaṁkiñci rūpaṁ atītānāgata–paccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yandūre santike vā sabbaṁ rūpaṁ netaṁ mama nesohamasmi na meso attāti’ eva metaṁ yathābūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.
“Này chư tỳ khưu, [bởi vì là không thích nghi nếu nghĩ đến sắc uẩn ‘Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi,’ ] tất cả những loại sắc pháp, dầu ở
⒈ quá khứ,
⒉ vị lai hay
⒊ hiện tại,
⒋ bên trong, hay
⒌ bên ngoài,
⒍ thô kịch, hay
⒎ vi tế,
⒏ thấp hèn, hay
⒐ cao thượng,
⒑ xa, hay
⒒ gần,
phải được xem với sự hiểu biết chân chánh, đúng theo thực tế như sau:
‘① Ðây không phải là của tôi,
② đây không phải là tôi,
③ đây không phải là tự ngã của tôi’.”
Trong lời tuyên ngôn trên, sắc uẩn được mô tả bằng mười một phương cách: quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô kịch, vi tế, thấp hèn, cao thượng, xa, gần.
Về phương diện thời gian, sắc uẩn được mô tả bằng những danh từ quá khứ, vị lai, hiện tại.
“Quá khứ” hàm ý là đã phát sanh và hoại diệt trong những kiếp sống trước, hoặc trong kiếp này, những gì đã phát sanh và hoại diệt trước đây.
“Vị lai” có nghĩa là cái gì chưa xảy diễn, cái gì sắp xảy đến một lúc nào trong tương lai.
“Hiện tại” là cái gì thật sự xảy diễn ngay bây giờ.
Do đó, nó bao trùm tất cả những gì xảy ra trước đây, những gì đang xảy ra ngay bây giờ và những gì sắp xảy ra trong tương lai.
Như vậy, khi sắc uẩn được kể ra bằng ba phương cách theo thời gian thì tất cả sắc pháp bên trong ta và trong người khác, cả hai – hữu tri hữu giác và vô giác vô tri – đều được bao trùm trong đó.
Tuy nhiên trong pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā), người hành thiền chỉ chú trọng đến công phu quán chiếu những gì phát sanh trong thân, như đã được trình bày rõ ràng trong Chú Giải và Phụ Chú Giải kinh Anupada Sutta của bộ Majjhima Nikāya (Trung A Hàm).
Những hiện tượng xảy ra nơi nào khác chỉ được hiểu biết bằng cách suy đoán.
Như vậy người hành thiền chỉ cần hiểu biết những hiện tượng vật chất và tinh thần (sắc và danh) xảy ra bên trong chính thân mình và thấy bản chất thật sự của nó với trí tuệ của chính mình.
Dầu đối với những hiện tượng xảy ra bên trong mình, ta chỉ hiểu biết những gì xảy ra trong tương lai bằng cách suy diễn, bởi vì nó chưa xảy ra.
Những gì đã xảy ra trước đây, ta cũng không thể hiểu biết đúng như nó thật sự là vậy, mà chỉ hiểu bằng cách suy đoán.
Dầu đó là những hiện tượng xảy ra trong kiếp sống này ta cũng không dễ gì thấy rõ những gì thật sự xảy ra trong vài năm trước, trong vài tháng, hay vài ngày qua.
Dầu những gì vừa xảy ra trong vài giờ trước đây, cũng khó mà hiểu được sự thật một cách tuyệt đối, bởi vì với người thường, mỗi khi thấy, nghe hay sờ đụng vật gì liền bị dính mắc trong những khái niệm chế định như “tôi”, “nó”, “người nam”, “người nữ”.
Như đã ghi rõ trong kinh Bhaddekaratta Sutta, “Paccuppannañca yo dhammaṁ, tattha tattha vipassati”:
Trong pháp hành thiền Minh Sát, chỉ có hiện tại là phải được quán chiếu, có nghĩa là chỉ có những hiện tượng xảy diễn trong hiện tại mới được xem là những hiện tượng được thấy và được kinh nghiệm.
Kinh Satipaṭṭhāṇa Sutta, Niệm Xứ, cũng ghi rằng phải ghi nhận trước tiên hiện tượng xảy ra trong hiện tại khi đi, đứng, ngồi, nằm.
Sư [Mahasi Sayadaw] đã thận trọng phân tách chương này, bởi vì trong đó đề cập đến “quá khứ, hiện tại, vị lai” và ta có thể hoài nghi rằng có phải chăng nên bắt đầu bằng cách quán chiếu những gì xảy ra trong quá khứ.
Công trình phân tách chương này loại bỏ hoài nghi ấy.
Chỉ có những hiện tượng vật lý và tâm linh phát hiện ở lục căn ngay vào lúc đối tượng được thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ đụng, hay nghĩ đến, phải được ghi nhận, giống như thiền sinh chúng ta hiện thời đang ghi nhận những hiện tượng phồng, xẹp, ngồi, đụng v.v…
Bằng cách thực hành như vậy, khi tâm định vững mạnh chắc chắn hành giả có thể phân biệt rõ ràng di động phồng lên và tâm ghi nhận sự phồng lên ấy; di động xẹp xuống và tâm ghi nhận di động ấy.
Thời gian cái bụng giãn ra, ép lên và nổi phồng chỉ kéo dài chí đến lúc xẹp xuống, rồi tan biến khi bụng xẹp.
Trạng thái và di động xẹp xuống của bụng cũng chỉ kéo dài đến lúc bụng bắt đầu phồng lên, rồi tan biến và chấm dứt tại đó ngay vào lúc ấy.
Khi đi cũng vậy, tác động duỗi chân ra và di động đưa “bước phải tới” chỉ kéo dài đến lúc “bước trái” bắt đầu;
cùng thế ấy, động tác và di động bước tới của chân trái chỉ kéo dài đến khi bước phải bắt đầu.
Vừa phát hiện đã chấm dứt. Tác động “dở lên” chỉ kéo dài đến lúc “đưa chân tới”; tác động đưa chân tới chỉ kéo dài đến lúc “đặt chân xuống”; tất cả đều chấm dứt khi giai đoạn sắp tới kế đó khởi phát.
Cùng thế ấy khi co tay vào và duỗi tay ra, mỗi hiện tượng tan biến ngay vào khoảnh khắc mà hiện tượng tới kế đó khởi phát.
Khi tâm định đặc biệt vững mạnh hành giả sẽ nhận thấy rằng trong khoảng thời gian của tác động co vào hay duỗi ra, tiến trình hoại diệt xảy diễn rất nhanh chóng, liên tục tiếp nối trong một chuỗi dài.
Vị hành giả nhận thức rằng cho đến nay mình chưa từng hiểu biết bản chất thiên nhiên của những hiện tượng này như thế ấy, bởi vì đến nay mình ghi nhận không đủ xuyên thấu.
Giờ đây thận trọng ghi nhận, hành giả nhận thức rằng các uẩn không di chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kế mà luôn luôn hoại diệt ngay vào lúc vừa khởi sanh.
Như vậy những đặc tính vật lý, hay sắc pháp, khởi phát trước không kéo dài đến khoảnh khắc hiện tại mà tất cả đều chấm dứt.
Những sắc pháp phát hiện trong hiện tại trong di động phồng, xẹp, co. duỗi, bước, đặt xuống, không tiến đến khoảnh khắc sau kế đó mà tan biến trong khoảnh khắc hiện tại.
Rồi những sắc pháp của những hiện tượng kế đó cũng chấm dứt ngay vào lúc khởi sanh.
Như vậy tất cả những loại sắc pháp là vô thường, không ngừng sanh diệt.
Nó là đau khổ, vô ngã, chỉ là những hiện tượng, bởi vì ta không thể kiểm soát.
Nó phát sanh và hoại diệt tùy thuộc những nhân và duyên của chính nó.
Ðến đây hành giả nhận thức sắc pháp qua trí tuệ của chính mình.
Nhằm giúp nhận thức như thế Ðức Thế Tôn kêu gọi nên cố gắng hành thiền để có thể hiểu biết rằng “đây không phải của tôi.”
Quán Chiếu Về Netaṁ mama và Anicca
–––––––––––––––
Netaṁ mama – “Ðây không phải là của tôi” – Theo lời dạy này ta có thể hỏi rằng phải chăng quán chiếu có nghĩa là đọc tụng công thức này.
Không có đọc tụng chi cả. Công phu thực hành Thiền Tập phải được thực hiện để hiểu biết bản chất thật sự của sự vật là vô thường, khổ và vô ngã.
Hiểu biết thực tướng của các pháp hữu vi tức là thông hiểu ý nghĩa của thành ngữ “netaṁ mama” trong tiếng Pāli.
Trong kinh Channa Sutta, phẩm Saḷāyatanavagga của bộ Saṁyutta Nikāya, Tương Ưng Bộ Kinh, có đoạn ghi rằng khi Channa được hỏi:
“Ông có nhận thức chăng rằng: ‘Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’?”, và Channa trả lời:
“Tôi nhận thức như thế này: ‘Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi’.”
Bản Chú Giải giải thích rằng như vậy có nghĩa là Channa nhận thức sự vật chỉ là vô thường, khổ và vô ngã.
Nơi đây, đoạn thấy “netaṁ mama nesohamasmi – đây không phải là của tôi” cũng đồng nghĩa với câu nói “bởi vì sự vật luôn luôn sanh và diệt, không có chi đáng cho ta thích thú với nó, hay không có chi đáng cho ta tùy thuộc, tin cậy, hay nương tựa vào, mà chỉ là đau khổ”.
Thấy “nesohamasmi – đây không phải là tôi” là thấy rằng nó không thường còn.Tánh ngã mạn phát sanh bởi vì ta tin rằng sự vật là thường còn. Khi hiểu biết thực tướng vô thường của sự vật thì không có gì để ta hãnh diện.
Thấy “na meso atta – đây không phải là tự ngã”, tức không phải là chính tôi, là thấy vô ngã, anattā.
Sự kiện không ghi nhận đúng những hiện tượng vật lý và tâm linh, sắc và danh, vào lúc nó phát hiện ở lục căn và tin tưởng rằng đó là thường còn, đưa đến hãnh diện “đây là của tôi”.
Nhưng khi các hiện tượng được nhận thức là không tồn tại đến một nháy mắt, khi mọi sự vật được thấy là vô thường, thì ngã mạn “đây là tôi” không thể phát sanh.
Giờ phút nào mà sự vật không được nhận thức rõ ràng là vô ngã thì còn ý niệm chấp thủ vào cái “ta” – “đây là tự ngã”; khi sự vật được thấy là vô ngã thì không thể còn chấp ngã.
Ðiều này dĩ nhiên là vậy, không cần phải diễn giải dong dài.
Người thường, không thể quán sát và hiểu biết những hiện tượng được cảm thọ vào lúc nó khởi phát, tin rằng chính những sắc pháp khởi sanh vào lúc mình thấy kéo dài và trở thành những sắc pháp vào lúc mình nghe, hay ngược lại, những sắc pháp ấy tồn tại từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kế.
Họ cũng tưởng rằng chính một “cái tôi” thấy và cũng chính một “cái tôi” ấy nghe, và sờ đụng.
Họ tin tưởng rằng những sắc pháp trong quá khứ còn tồn tại đến hiện tại, và những sắc pháp trong hiện tại sẽ kéo dài tồn tại trong tương lai, đó là chấp thủ vào niềm tin thường còn.
Nhưng vị hành giả chuyên cần quán niệm những hiện tượng, hiểu biết rằng các sắc pháp phát hiện trong lúc mình thấy tan biến ngay vào lúc ấy.
Nó không tồn tại kéo dài đến lúc mình nghe, và các sắc pháp phát hiện trong lúc mình nghe cũng tức khắc tan biến liền tại chỗ, không kéo dài đến lúc mình thấy.
Mỗi khi thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết là một sự phát hiện mới. Ðó là hiểu biết chân lý vô thường của sự vật đúng như thật sự nó là vậy.
Thông hiểu như vậy người hành thiền nhận thức rằng sắc pháp trong quá khứ đã chấm dứt trong quá khứ, không tồn tại đi vào hiện tại;
các sắc pháp phát sanh trong hiện tại cũng luôn luôn tiêu diệt ngay vào lúc nó được ghi nhận và sẽ không tồn tại đi vào vị lai.
Vị ấy cũng hiểu biết rằng các sắc pháp phát sanh trong tương lai cũng sẽ hoại diệt ngay vào lúc khởi sanh.
Vị ấy nhận thức rằng sắc pháp không thể tồn tại đến một nháy mắt.
Nhận thức như vậy không có cơ hội để làm khởi sanh tình trạng chấp ngã do lòng tham ái, “đây là của tôi”, chấp ngã do tính ngã mạn “đây là tôi”, và chấp ngã do tà kiến “đây là tự ngã của tôi”.
Ðức Thế Tôn kêu gọi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu nên quán chiếu và suy niệm theo phương cách này để loại trừ tình trạng chấp ngã do tham ái và chấp ngã do ngã mạn.
Người thường cũng được dạy nên quán niệm như vậy để diệt trừ tà kiến ngã chấp.
Các Vị Tu–Ðà–Huờn Ðược Dạy Nên Quán Niệm Về Ðặc Tướng Vô Ngã
–––––––––––––––
Tại sao Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, vốn đã chứng ngộ tầng Nhập Lưu, còn được dạy nên quán niệm “đây không phải là tự ngã của tôi” để diệt trừ tà kiến ngã chấp?
Ðó là điều mà ta nên suy tư. Theo sách Thanh Tịnh Ðạo (Visudhimagga), bậc Nhập Lưu đã loại trừ
⑴ những ảo kiến về tự ngã (diṭṭhi vipallāsa), [kiến đảo điên]
⑵ những ảo kiến về tri giác, tưởng uẩn (saññā vipallāsa), [tưởng đảo điên]
⑶ những ảo kiến về tâm (citta vipallāsa), [tâm đảo điên].
Bởi vì Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã loại trừ tất cả ba loại ngã chấp ấy thì lời kêu gọi của Ðức Thế Tôn nhằm vào chấp thủ nào?
Trong phần trước chúng ta đã thấy bài kinh Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, này dạy phải hành như thế nào để loại trừ asmi māna, vốn tương tợ như ngã chấp.
Nhưng nơi đây, vì đã có lời dạy nhằm loại trừ asmi māna trong câu neso hamasmi, “đây không phải là tôi”, thì không thể có lời dạy quán niệm về na meso attā, “đây không phải là tự ngã của tôi” cũng nhằm loại trừ asmi māna.
Như vậy thì lời dạy này nhằm tiêu trừ loại chấp thủ nào? Ðây là điểm cần phải xét lại.
Tìm ra một giải pháp rõ ràng và chính xác cho vấn đề này không phải là dễ.
Sư sẽ cố gắng giải quyết bằng ba phương cách:
1. Trong kinh Sīlavanta Sutta, có lời ghi nhận rằng vị A La Hán cũng hành thiền về bản chất của tự ngã.
Bài giảng về kinh Sīlavanta Sutta của Sư [ấn bản tiếng Miến Ðiện], trang 470, có thể được tham khảo.
Mặc dầu một vị Tu Ðà Huờn không còn ngã chấp nữa để loại bỏ, Ngài vẫn phải quán niệm về đặc tướng vô ngã như chư vị A La Hán để tiến đến Ðạo Quả cao thượng hơn.
Nếu câu giải đáp này cho câu hỏi trên chưa được thỏa đáng, thì sau đây là giải đáp thứ nhì của chúng ta.
2. Ðiều này theo đúng với những gì đã được trình bày trong bài giảng của Sư về kinh Sīlavanta, trang 330.
Vị Tu Ðà Huờn đã loại trừ mọi ảo kiến về trạng thái thường còn của tự ngã, không còn hoài nghi gì nữa.
Nhưng với ảo kiến về tri giác – tưởng uẩn (saññā vipallasa – tưởng đảo điên) ta nên hiểu biết rằng vị Tu Ðà Huờn chỉ loại trừ ảo kiến này khi Ngài cố ý suy niệm về nó, hoặc khi Ngài suy niệm về đặc tướng vô thường và vô ngã.
Chỉ trong những trường hợp ấy vị Tu Ðà Huờn mới được nói là đã vượt qua khỏi tà kiến thường còn và ngã chấp.
Nói rằng vị Tu Ðà Huờn cũng đã vượt qua khỏi các ảo kiến ấy trong những trường hợp khác, tức khi không cố tâm để ý đến [tức khi không như lý tác ý], là đặt vị Tu Ðà Huờn ngang hàng với những vị A La Hán, vốn đã hiểu biết rằng tất cả mọi tác động nhìn và nghe đều là vô thường và đã không còn ngã mạn và tham ái đối với người nam hay người nữ.
Do đó, trong những giây phút không chú ý [tức khi không như lý tác ý], vị Tu Ðà Huờn có thể còn có những ảo kiến hay ý niệm sai lầm về sự việc.
Nhằm giúp Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu loại bỏ những ảo kiến và ý niệm sai lầm tương tợ, Ðức Thế Tôn khuyên dạy các Ngài nên suy niệm về đặc tướng vô ngã.
3. Ðiểm này dựa trên giải thích của Ðại Ðức Khemaka, lúc bấy giờ là bậc A Na Hàm (Anāgami, Bất Lai).
Ðức Khemaka nói rằng Ngài đã không còn chấp sắc pháp, xem “đây là tôi” và cũng không chấp thủ những uẩn – thọ, tưởng, hành, thức – như vậy.
Tuy nhiên, đối với năm uẩn nói chung, xem như một toàn thể, Ngài vẫn còn chưa thoát ra khỏi ý niệm “đây là tôi”.
Ðối với vị Tu Ðà Huờn, lời giải thích này cũng giống như vậy, không còn chấp uẩn nào trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, là “ta”, nhưng đối với năm uẩn xem như một toàn thể vị Tu Ðà Huờn vẫn chưa thoát ra khỏi ý niệm đây là người nam hay người nữ.
Vì chưa thoát ra khỏi ý niệm sai lầm ấy, khát vọng về tình dục vẫn còn có thể khởi sanh, đến mức độ mà Ngài có thể trở lại cuộc sống gia đình.
Do đó, nên hiểu rằng Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu được kêu gọi nên suy niệm về đặc tướng vô ngã để vượt thoát qua khỏi những tri giác và ý niệm thông thường tương tợ.
Trên đây là một cố gắng nhằm dung hòa những lời dạy trong Kinh Ðiển Pāli và lời Chú Giải, nói rằng vị Tu Ðà Huờn đã thoát ra khỏi mọi tri giác và ý niệm về tự ngã.
(Còn tiếp)
Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw
Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
Fb links: mahasi sayadaw – kinh vô ngã tướng giảng giải
Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về Kinh Vô ngã tướng, Web
Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web
Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã, Web
Bài 4 – Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã, Web
Bài 5 – Thân Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web
Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web
Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web
Bài 8 – Thọ Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web
Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web
Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web
Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web
Bài 12 – Thức Là Vô Ngã, Web
Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác khi xuất hiện trên thế gian, Web
Bài 14 –Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web
Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web
Bài 16: Ngũ Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Vô Thường Khổ Vô Ngã, Web
Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường, Web Link
Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ, Web
Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web
Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web
Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Hành uẩn, Web
Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn, Web
Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web
Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web
Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web
Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web
Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web
Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web
Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web
Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web
Bài 31: Nibbinda Ñāṇa – Tuệ Nhàm Chán Là Gì? Tu Tập Vun Bồi Như Thế Nào?, Web
Bài 32: Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa), Web
Bài 33: Phát Triển Vuṭṭhānagāminī vipassanā – Tuệ Minh Sát Vượt Lên, Web
Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
