Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn
Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn.
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=10230830404369057&id=1394710113&mibextid=Nio

Bản Chất Vô Thường Của Thức Uẩn
Viññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso me attāti. No h’etaṁ bhante.
“Thức là thường còn hay vô thường?” Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi. Năm Vị Tỳ Khưu trả lời, “Là vô thường, Bạch Ngài.”
Viññāṇā là tâm, hay thức; danh từ “thức” ít thông dụng bằng danh từ “tâm”. Chí đến những tâm sở như tác ý, tham, sân, đều được gọi là tâm, bởi vì tâm có một nhiệm vụ dẫn đầu.
Trong chương này chúng ta cũng dùng thường danh từ “tâm” thay vì “thức”.
Những người không thể quán chiếu và niệm tâm ngay vào lúc nó khởi phát, tưởng tượng rằng tâm liên tục tiếp nối, thường còn;
chính cái tâm ấy cảm nhận sự thấy, sự nghe, sự ngửi, sự nếm, và sự suy nghĩ;
chính cái tâm thấy một cách liên tục không gián đoạn, và sự nghe, sự ngửi cũng liên tục không gián đoạn như thế;
chính cái tâm hiện hữu lúc tuổi thơ vẫn còn tồn tại đến nay và sẽ tiếp tục tồn tại đến chết;
chính cái tâm ấy đã liên tục sinh hoạt xuyên qua suốt kiếp sống.
Vài người còn tin rằng cũng cái tâm ấy sẽ di chuyển sang những kiếp sống tương lai. Như thế ấy tâm được xem là vĩnh viễn thường còn.
Khi vị hành giả ghi nhận di động phồng xẹp của bụng chuyên cần quán chiếu những hiện tượng sắc và danh ghi nhận sự khởi sanh của một ý nghĩ hay một tư tưởng, liền niệm, “ý nghĩ”, “tư tưởng”. Khi niệm như thế, ý nghĩ hay tư tưởng tan biến. Như vậy hành giả nhận thức:
“Trước đó không có tư tưởng, nó xuất hiện và tức khắc biến tan.
Trước kia tôi tưởng tượng rằng tư tưởng là thường còn bởi vì lúc ấy tôi không quán chiếu một cách thận trọng. Giờ đây tôi thận trọng quán chiếu và thấy nó tan biến, hiểu biết đúng sự thật, tôi nhận ra nó là vô thường.”
Nhĩ thức cũng vậy, khi niệm “nghe, nghe” tâm cũng liên tục khởi sanh rồi tan biến, khởi sanh rồi tan biến, một cách rất nhanh chóng.
Tỷ thức và thiệt thức, tâm hay biết mùi và vị, cũng cùng thế ấy.
Thân thức cảm nhận xúc giác, được ghi nhận cũng khởi sanh và hoại diệt rất nhanh chóng, chỗ này chỗ kia, cùng khắp châu thân.
Khi tâm định an trụ thật vững chắc, nhãn thức cũng được nhận ra là luôn luôn sanh diệt trong một chuỗi dài, một loạt những sự thấy riêng biệt và liên tục, cái này đến cái khác.
Như thế ấy ta nhận thức rằng tâm suy tư, nghe, sờ đụng, thấy v. v… khởi sanh riêng biệt và riêng biệt tan biến, hết cái này đến cái khác, tất cả đều vô thường, không ổn định.
Tâm muốn thay đổi oai nghi, muốn co vào hay duỗi ra, đứng dậy, hay đi, đổi mới từng chặp và tức khắc hoại diệt.
Tâm ghi nhận mỗi hiện tượng cũng hoại diệt mỗi khi ghi nhận. Như vậy cái tâm hay biết những loại đối tượng khác nhau không ngừng sanh diệt và do đó, là vô thường.
Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã nhận thức sự việc như vậy và chứng đắc tầng Nhập Lưu. Khi lắng nghe Ðức Thế Tôn giảng giải kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) này, xuyên qua trạng thái sanh diệt của thức uẩn, các Ngài nhận thấy rõ ràng bản chất vô thường một lần nữa.
Do đó, đáp lại câu hỏi của Ðức Thế Tôn, “Thức là thường còn hay vô thường?” các Ngài kính bạch:
– “Bạch Ngài, là không thường còn.”
Ðối với người hành thiền chuyên cần quán niệm, hiển nhiên quả thật là rất rõ ràng.
“Hơn nữa, cái gì là vô thường, đó là khổ (dukkha) hay lạc (sukha)?” Ðức Thế Tôn hỏi, và các vị trả lời:
– “Bạch Ngài, là khổ.”
“Cái gì là vô thường, khổ, và phải luôn luôn chuyển biến, có thích nghi chăng nếu xem đó ‘Cái này của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’?”
– “Bạch Ngài, không thích nghi.”
Ðây là những câu vấn đáp đã có được đề cập đến ở phần trên. Chúng ta chỉ cần hiểu thế nào tâm suy tư và hiểu biết có thể lầm lạc vướng kẹt trong các dính mắc ấy với tham ái, ngã mạn, và tà kiến, và làm thế nào để tháo gỡ, vượt thoát ra khỏi những loại dính mắc ấy.
Người thường, vốn không thể ghi nhận tâm của mình ngay vào lúc nó phát hiện ở lục căn, lấy làm hoan hỷ thỏa thích xem thức hay biết ấy là “của tôi, là chính tôi.”
Người ta thích thú với cái tâm phát hiện trong khoảnh khắc hiện tại; người ta thỏa thích với cái tâm đã khởi sanh trước đó, và người ta thỏa thích với cái tâm sẽ phát sanh trong tương lai. Ðó là dính mắc, chấp ngã, với tâm tham ái.
Người hành thiền, trong khi niệm, nhận ra rằng tất cả những loại nhãn thức hay nhĩ thức đẹp mắt, êm tai và đem lại niềm vui thú ấy nhanh chóng tan biến khi mình niệm đến nó. Người ấy không hoan hỷ thỏa thích trong đó và không khao khát mong tìm. Ðó là phương cách để vượt thoát ra khỏi sự dính mắc với lòng tham ái.
Người thường, vốn không niệm tâm, không thể phân biệt cái tâm đến trước và cái theo sau.
Họ nghĩ rằng tâm của họ lúc thiếu thời vẫn một mực liên tục tồn tại đến hiện nay, vẫn là cái tâm thường còn. Cái tâm mà họ có trước kia tiếp tục thấy, nghe, sờ đụng, và suy tư.
Nghĩ rằng tâm là thường còn và có những đặc tính riêng biệt làm phát triển tính ngã mạn, “tôi hiểu biết như thế này, tôi sẽ không chấp nhận điều vô lý, tôi có tâm gan lì can đảm.” Ðó là dính mắc với ngã mạn.
Nhưng người hành thiền chuyên cần quán niệm hiểu biết rằng tất cả những chặp tâm ấy luôn luôn hoại diệt biến tan khi mình vừa ghi nhận, niệm đến nó. Người ấy hiểu biết bản chất vô thường của tâm.
Cũng như tánh ngã mạn không phát sanh đến người biết mình sắp chết, vị hành giả đã thấu triệt bản chất phù du của tâm không dính mắc vào đó với lòng ngã mạn. Ðó là phương cách nhằm vượt thoát ra khỏi dính mắc với ngã mạn.
Người thường tin tưởng, “Chính tôi đã thấy, chính tôi đã nghe, ngửi, sờ đụng và suy tư; tôi có thể hiểu biết nhiều loại đối tượng khác nhau; tôi muốn co vào, duỗi ra, đi, nói chuyện, tất cả những tư tưởng và hành động là do tâm tôi, do chính tôi thực hiện.” Ðó là chấp thủ kāraka attā.
Sự chấp thủ dưới hình thức hành uẩn có thể được xem là saṅkhāra, nhưng cũng có thể liên quan đến thức (viññāṇa).
Thông thường ý muốn co vào, duỗi ra, hay làm một việc gì, được xem là tâm hay thức. “Tâm hay thức này được xem là tự ngã hiện hữu thường còn bên trong một người; chính tự ngã ấy trở thành nhãn thức và nhĩ thức.” Tin tưởng như thế đó là chấp thủ nivāsa attā.
Vài tôn giáo hiện đại nói về một cái thức hay linh hồn trường cửu nằm bên trong thân. Theo niềm tin này, khi một người chết, linh hồn lìa xác chết và vào ở trong một cơ thể mới.
Vào thời Ðức Phật vị tỳ khưu Sāti xem thức là tự ngã. Câu chuyện này đã được tường thuật trong Chương IV, trang 360. Ðây là tà kiến xem thức là tự ngã.
Rồi lại có niềm tin rằng ta có thể suy tư theo ý muốn, hay kiểm soát cái tâm của mình như mình quyết định. Ðó là chấp thủ sāmi attā.
Ðối với vị hành giả luôn luôn giữ chánh niệm, chí đến mỗi khi niệm, “suy tư, suy tư” thì tâm suy tư tan biến;
niệm “nghe, nghe”, thì nhĩ thức tan biến;
niệm, “sờ đụng, sờ đụng” thì thân thức tan biến;
niệm, “thấy, thấy” thì nhãn thức tan biến.
Nhận ra sự tan biến của thức như vậy ngay vào lúc niệm đến nó, hay biết rằng “những thức khác nhau liên hệ đến suy tư, nghe, sờ đụng, thấy v.v… chỉ là những hiện tượng phát sanh do các nhân của nó tạo duyên, rồi liền tan biến. Thức ấy không phải là tự ngã, không phải một thực thể sống.”
Hành giả nhận thức rõ như thế này:
Theo đúng với câu cakkhuṁ ca paṭicca rūpa ca uppajjati viññāṇaṁ – nhãn thức phát sanh tùy thuộc nơi mắt và hình thể được thấy;
nhĩ thức phát sanh tùy thuộc nơi tai và tiếng động;
thân thức phát sanh tùy thuộc nơi thân và vật được sờ đụng;
ý thức phát sanh tùy thuộc nơi ý căn và đối tượng tâm linh;
tâm chú niệm phát sanh tùy thuộc nơi ý muốn (niệm, hay ghi nhận) và đối tượng được ghi nhận.
Những loại thức khác nhau phát sanh do những nhân và duyên của chính nó.
Với những nguyên nhân tạo duyên ấy nó khởi phát và hoại diệt, dầu ta có muốn nó khởi phát và hoại diệt cùng không.
Nếu không có những nguyên nhân tạo duyên ấy ắt không có ý muốn làm cho nó phát sanh.
Chúng ta muốn cho tâm thỏa thích tồn tại lâu dài, nhưng nó không tồn tại mà nhanh chóng hoại diệt.
Như vậy vị hành giả có thể quyết định với sự hiểu biết của chính mình rằng, “thức không phải là tự ngã thường còn tác hành những sinh hoạt theo ý muốn của ta.” Nó chỉ là một hiện tượng khởi sanh tùy thuộc nhân duyên rồi tan biến.
Trí tuệ của Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu không phải là sự hiểu biết thông thường mà là tuệ giác của bậc đã Nhập Lưu, hoàn toàn không còn chấp thủ. Do đó, khi Ðức Thế Tôn hỏi, “Thức uẩn vốn là vô thường, khổ và phải chuyển biến, có thích nghi chăng nếu xem đó như
‘Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi’?”
Các vị trả lời:
– “Bạch Ngài, là không thích nghi.”
(Còn tiếp)
Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw
Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về Kinh Vô ngã tướng, Web
Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web
Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã, Web
Bài 4 – Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã, Web
Bài 5 – Thân Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web
Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web
Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web
Bài 8 – Thọ Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web
Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web
Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web
Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web
Bài 12 – Thức Là Vô Ngã, Web
Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác khi xuất hiện trên thế gian, Web
Bài 14 –Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web
Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web
Bài 16: Ngũ Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Vô Thường Khổ Vô Ngã, Web
Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường, Web Link
Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ, Web
Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web
Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web
Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Hành uẩn, Web
Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn, Web
Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web
Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web
Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web
Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web
Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web
Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web
Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web
Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web
Bài 31: Nibbinda Ñāṇa – Tuệ Nhàm Chán Là Gì? Tu Tập Vun Bồi Như Thế Nào?, Web
Bài 32: Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa), Web
Bài 33: Phát Triển Vuṭṭhānagāminī vipassanā – Tuệ Minh Sát Vượt Lên, Web
Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
