Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường Và Dựa Trên Sự Thực Hành Minh Sát Tứ Niệm Xứ Như Thế Nào

Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường Và Dựa Trên Sự Thực Hành Minh Sát Tứ Niệm Xứ Như Thế Nào?

https://www.facebook.com/share/p/1EH5y1Ni1N/

#KinhVôNgãTướng #MyanmarSayadaw

#MahasiVietBook

–––––––––––––––

Ðức Thế Tôn đã giải thích đầy đủ về lý vô ngã nhưng để giải rõ thêm, Ngài dựa trên hai đặc tướng vô thường, khổ, và dạy:

Taṁ kiṁ maññatha bhikkhave rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama eso hamasmi eso me attāti. No h’etam Bhante.

“Này chư Tỳ Khưu, các con nghĩ thế nào? Hình sắc là thường còn hay vô thường?””Bạch Ðức Thế Tôn, là vô thường.”

Ðức Thế Tôn hỏi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu hình sắc có là thường còn hay không? Bạch Ngài, “Nó không thường còn”.

Câu trả lời này có thể được nói lên do một người thường, người có kiến thức nhờ nghe ai khác dạy, nhưng Ðức Thế Tôn muốn một câu trả lời dựa trên tuệ giác mà chính người trả lời đã chứng nghiệm, và trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, tất cả đều đã chứng ngộ Ðạo Quả Tu Ðà Huờn, tức đã tự mình chứng nghiệm chân lý.

Câu trả lời của các vị này dựa trên tuệ giác của chính bản thân mình. Ðó là ý muốn của Ðức Phật.

Quý vị hành giả trong thiền viện đây cũng có thể trả lời câu hỏi này dựa trên kiến thức bản thân của mình.

Khi niệm “phồng”, hành giả nhận thức rõ ràng hiện tượng giãn ra, ép lên, và di chuyển của bụng.

Những hiện tượng giãn ra, ép lên và cử động là sự biểu hiện của nguyên tố gió (vāyo dhātu).

Trước đó không có những hiện tượng ấy; nó trở nên hiển hiện khi bụng bắt đầu phồng lên.

Như vậy đó là sự sanh khởi, rồi trở thành, của hiện tượng. Di động phồng lên của bụng là sự bắt đầu sanh khởi của hiện tượng được hành giả thận trọng quán sát và ghi nhận.

Khi di động phồng lên chấm dứt, những hiện tượng giãn ra, ép lên và di động của bụng không còn nữa. Ta nói là nó ngưng lại, tan biến, chấm dứt, diệt.

Như vậy khi quán niệm di động phồng lên của bụng người hành thiền cũng nhận thức trạng thái sanh khởi rồi hoại diệt, tan biến.

Hiện tượng tan biến tiếp liền theo sự sanh khởi và trở thành này chắc chắn là đặc tướng của vô thường: sanh, trụ, diệt.

Chứng nghiệm đặc tướng vô thường trong khi niệm phồng xẹp ở bụng là thật sự minh sát bản chất vô thường aniccānupassanā ñāṇa.

Tuệ giác hiểu biết đặc tướng vô thường phát sanh do quán niệm trạng thái khởi sanh và hoại diệt là sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, mức đầu của một loạt mười tuệ giác phát triển do thiền Minh Sát.

Sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, chỉ nhận thức trạng thái khởi sanh và hoại diệt của những hiện tượng tâm vật lý mà chưa tri giác đầy đủ những chi tiết vi tế ở khoảng giữa. Ðây chỉ là kiến thức thâu thập nhờ thấy được hiện tượng trở thành và tan biến của những tiến trình liên tục tiếp diễn, ngay vào lúc nó khởi sanh.

Khi niệm phồng lên ở bụng, hành giả nhận thấy bụng bắt đầu phồng lên và chấm dứt. Hiểu biết sự khởi sanh của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự trở thành, hiểu biết sự chấm dứt của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự tan biến.

Thấy rõ trạng thái trụ và diệt của mỗi di động phồng lên không thể có khái niệm lầm lạc rằng đó là thường còn.

Khi niệm bụng xẹp, hành giả nhận thấy rõ ràng trạng thái thâu rút xẹp xuống của bụng. Ðó là sự di động của nguyên tố gió (vāyo dhātu). Thấy trạng thái khởi đầu và chấm dứt của di động xẹp xuống ở bụng là thấy nguyên tố gió.

Khi bụng phồng lên thì không có di động xẹp xuống của bụng; chỉ đến lúc di động phồng lên chấm dứt hình sắc xẹp xuống của bụng mới bắt đầu hiện khởi. Rồi cuối cùng hình sắc xẹp xuống cũng tan biến. Ðó cũng là vô thường.

Ðặc Tướng Vô Thường Anicca khayaṭṭhena: một điều kiện là vô thường bởi vì bản chất của nó là đi đến chấm dứt.

Theo định nghĩa này, trạng thái xẹp xuống của bụng, biểu hiện qua di động thâu rút xẹp xuống đến cùng, chấm dứt không xuống nữa. Như vậy di động ấy là vô thường.

Một Chú Giải khác định nghĩa hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành hiện hữu và rồi tan biến, như vậy là vô thường.

Trong khi niệm, “xẹp, xẹp” và hay biết di động xẹp xuống của bụng từ lúc đầu đến lúc chấm dứt, hành giả chứng nghiệm bản chất vô thường của nó.

Ðó là thật sự thấu hiểu bản chất vô thường (aniccānupassanā ñāṇa) ở MỨC ĐỘ SAMMASANA ÑĀṆA, TUỆ THẤU ĐẠT, nhận thấy trạng thái khởi sanh và chấm dứt của những tiến trình liên tục, ngay vào lúc nó xảy diễn.

Ðến MỨC ĐỘ UDAYABBAYA ÑĀṆA, TUỆ SANH DIỆT, hành giả có thể phân biệt rõ ràng ba, bốn hay năm chặng khởi sanh và chấm dứt của hiện tượng trong khoảng thời gian bụng phồng lên và xẹp xuống.

Khi tiến đạt đến giai đoạn MỨC ĐỘ BHAṄGA ÑĀṆA, TUỆ DIỆT, hành giả có thể phân biệt nhiều chặng chấm dứt rất nhanh chóng trong một di động phồng lên và xẹp xuống.

Sắc pháp phồng lên và xẹp xuống của bụng ở trong trạng thái chấm dứt quả thật là vô thường.

Khi co tay vào hay duỗi tay ra, thận trọng quán niệm, “co vào, co vào” hay “duỗi ra, duỗi ra” và rõ ràng nhận thấy mỗi cử động từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt.

Thấy được như vậy là nhờ tiến trình di động được thận trọng ghi nhận. Người thiếu niệm ắt không thể hay biết cử động co tay vào hay duỗi tay ra của mình.

Hay dù có hay biết đi nữa người ấy không phân biệt rõ ràng lúc bắt đầu cử động đến lúc chấm dứt. Người ấy sẽ có cảm tưởng rằng cái tay ở đó trước khi co vào hay duỗi ra sẽ còn đó sau khi cử động.

Khi co tay vào hay duỗi tay ra hành giả thấy có di động chậm chạp của tay mình từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc kế tiếp.

Trong mỗi trường hợp co vào hay duỗi ra, lúc bắt đầu duỗi ra và di động là bắt đầu có sự hiện hữu của nguyên tố gió (vāyo dhātu), và khi chấm dứt cử động duỗi ra và di động là sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo).

Khi niệm co vào, hiểu biết sự khởi đầu và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Cùng thế ấy, khi niệm duỗi ra và hiểu biết rõ ràng sự bắt đầu và sự chấm dứt của mỗi cử động duỗi ra là hiểu biết sự phát sanh và chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo).

Trong khoảng thời gian của một cử động co vào hay duỗi ra, hiểu biết những di động chậm chạp khác nhau từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo), có đặc tính là giãn ra và di động.

Sự di động từ từ của cánh tay biểu lộ hiển nhiên bản chất vô thường. Tuy nhiên, không thể chứng nghiệm chân lý này nếu không thận trọng quán niệm.

Trong khi đi, hành giả niệm “mặt, trái”, hiểu biết lúc khởi đầu và lúc chấm dứt của mỗi bước.

Ðó là hiểu biết sự khởi sanh và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo) vốn có đặc tính làm duỗi chân ra và di động bước tới.

Cùng thế ấy hành giả quán niệm cử động của chân lúc dở lên, đưa tới và đạp xuống, hiểu biết rành rẽ lúc tác động bước tới bắt đầu và lúc chấm dứt. Ðó cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo).

Hiểu biết di động từ từ của chân trong mỗi bước cũng là hiểu biết trạng thái sanh và diệt của nguyên tố gió (vāyo). Như vậy nguyên tố gió, vốn có nhiệm vụ đưa cái chân bước tới, cũng khởi phát và chấm dứt trong mỗi bước và do đó, là vô thường.

Khi niệm cảm giác (thọ) xúc chạm ở bất luận nơi đâu trong thân, hiểu biết sự khởi sanh và chấm dứt của cảm giác đụng là hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong xúc giác.

Hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong chính thân mình và vật mình chạm đến. Hành giả chứng nghiệm rằng cảm giác đụng chạm của cơ thể vật chất cũng không ổn định mà vô thường, bởi vì luôn luôn sanh diệt trong mỗi niệm.

Khi niệm “nghe, nghe” hành giả ghi nhận rằng tiếng động vừa khởi sanh đã nhanh chóng tan biến. Ðó là hiểu biết trạng thái sanh diệt của âm thanh. Như vậy mỗi tiếng động đều là vô thường.

Cùng với sắc pháp của tiếng động, sắc pháp (phần nhạy) của lỗ tai mà tiếng động chạm đến cũng sanh khởi và nhanh chóng hoại diệt.

Như vậy có thể nói rằng một khi nhận ra sự khởi sanh và hoại diệt của âm thanh cũng hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp (phần nhạy) trong lỗ tai. Như vậy hành giả cũng hiểu biết bản chất vô thường của tai.

Tiếng hú của nhà máy xay lúa hay tiếng sủa của con chó, ta thường nghĩ là kéo dài, nhưng đối với vị hành giả mà tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển mạnh mẽ, những âm thanh ấy phát hiện từng loạt những khoảnh khắc vi tế, từng chặng, từng giai đoạn, tiếng này rồi đến tiếng kia.

Hành giả chứng nghiệm rằng sắc pháp của âm thanh cũng phát khởi và hoại diệt rất nhanh chóng.

Cùng thế ấy trong khi niệm “thấy, thấy”, nếu tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển đến mức cao độ, vị hành giả cũng chứng nghiệm rằng sự thấy tức nhãn thức, và cái được thấy tức màu sắc, cũng nhanh chóng khởi sanh và tan biến.

Màu sắc được thấy, vốn khởi sanh và hoại diệt, cũng không thường còn. Sắc pháp (phần nhạy) của mắt, vốn đồng thời phát sanh và hoại diệt với màu sắc được thấy cũng là vô thường.

Trong khi ăn, hành giả ghi nhận vị của thức ăn và hiểu biết khi vị ấy tan biến. Vị vừa khởi sanh đã nhanh chóng chấm dứt, quả thật là vô thường.

Bản chất vô thường của vị rất rõ ràng. Vị ngon ngọt của thức ăn chỉ lưu lại ở lưỡi trong một thời gian ngắn và mau lẹ biến tan.

Cùng với vị, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cùng lúc cũng tan biến. Như vậy khi vị được nhận ra là vô thường, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cũng được nhận thức là vô thường.

Vị hành giả liên tục quán niệm mùi hương hiểu biết rằng mùi liên tục khởi phát và tan biến, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc. Mùi khởi sanh và nhanh chóng tan biến, quả thật là vô thường, và phần nhạy của mũi cũng đồng thời nhanh chóng phát sanh và hoại diệt.

Trong lúc niệm phồng xẹp ở bụng có những tư tưởng hiện khởi, hành giả phải thận trọng ghi nhận, và sẽ nhận thấy rằng vừa lúc niệm đến là suy tư ấy nhanh chóng biến tan.

Mỗi khi suy tư tan biến thì sắc pháp (ý căn) làm nền tảng cho suy tư ấy cũng tan biến. Ý căn cùng khởi sanh và tan biến với mỗi suy tư không tồn tại lâu dài, cũng là vô thường.

Những sắc pháp được đề cập ở phần trên, chính hành giả tự bản thân chứng nghiệm là vô thường, bằng cách liên tục ghi nhận những hiện tượng của ngũ uẩn.

Những sắc pháp ấy liên hệ đến toàn thể châu thân, luôn luôn sanh rồi diệt, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc, khi thấy, khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư.

Giống như sắc pháp bên trong thân mình, sắc pháp trong thân những người khác cũng vậy, cũng đồng thời khởi sanh và tan biến.

Thí dụ như khi ghi nhận âm thanh, “nghe, nghe”, sắc pháp, hay phần nhạy của tai, cũng tức thì hoại diệt. Sắc pháp của những người khác trên thế giới cũng sanh diệt cùng thế ấy.

Do đó Ðức Thế Tôn hỏi, “hình sắc là thường còn hay vô thường?” Nhóm Năm vị Tỳ Khưu đã tự bản thân chứng nghiệm bản chất vô thường của sắc uẩn trả lời, “Bạch Ngài, sắc là vô thường”.

Ðó là những câu hỏi về đặc tướng vô thường. Khi thấu hiểu tận tường đặc tướng vô thường thì cũng hiểu biết dễ dàng hai đặc tướng khổ và vô ngã.

Vô thường có nghĩa là không thường còn, không tồn tại lâu dài. Bản Chú Giải định nghĩa là hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành, rồi liền chấm dứt. Ðó là những đặc tính của vô thường.

Mọi người đều có trông thấy tia chớp khi trời sấm sét. Trước đó không hiện hữu, bỗng nhiên nhoáng lên trở thành, rồi tức khắc tan biến. Hiện tượng tia chớp có đủ tất cả những đặc tính của lý vô thường. Cái gì không hiện hữu bỗng nhiên khởi phát rồi nhanh chóng tan biến là có những đặc tính của trạng thái vô thường.

Vị hành giả đã liên tục quán sát tiến trình hay biết, trông thấy sự vật khởi sanh và chấm dứt. Chỉ khi nào vị ấy thấu đạt tuệ giác, chính tự mình hiểu biết đặc tướng vô thường aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thật sự mới phát triển.

Trông thấy trạng thái tan biến, vị hành giả hiểu biết rằng đó là vô thường. Sự hiểu biết này là aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng vô thường.

Nhằm giúp phát triển tuệ giác này Ðức Thế Tôn hỏi, “Sắc pháp là thường còn hay vô thường?”

Sư đã đề cập đến vấn đề vô thường một cách đầy đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng đau khổ.…

(Còn tiếp)

Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về kinh vô ngã tướng, Web

Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web

Bài 3 – Tà kiến về jīva attā tiểu ngã và parama attā đại ngã, Web

Bài 4 – Bốn loại luyến ái bám níu vào tự ngã, Web

Bài 5 – Thân quán niệm xứ: quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web

Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web

Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web

Bài 8 – Thọ quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web

Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web

Bài 10 – Hành quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web

Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web

Bài 12 – Thức là vô ngã, Web

Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư phật chánh đẳng giác khi xuất hiện trên thế gian, Web

Bài 14 – Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web

Bài 15 – Thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web

Bài 16: Ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức vô thường khổ vô ngã, Web

Bài 17: Thấu hiểu lý vô ngã dựa trên đặc tướng vô thường, Web

Bài 18: Thấu hiểu lý vô ngã dựa trên đặc tướng khổ, Web

Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web

Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web

Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm hành uẩn, Web

Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm thức uẩn, Web

Bài 23: Pphương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web

Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web

Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web

Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web

Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web

Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web

Bài 29:Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web

Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web

Bài 31: Nibbinda ñāṇa – tuệ nhàm chán là gì? tu tập vun bồi như thế nào?, Web

Bài 32: Sáu ðặc ðiểm của tuệ xả hành (saṅkhārupekkha ñāṇa), Web

Bài 33: Phát triển vuṭṭhānagāminī vipassanā – tuệ minh sát vượt lên, Web

Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua thánh quả, vốn là thành quả của thánh đạo, Web

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 268/2025