Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào
Bài 15 – Thấu Hiểu Đặc Tướng Vô Ngã Thông Qua Đặc Tướng Vô Thường Và Đặc Tướng Khổ Như Thế Nào?
https://www.facebook.com/share/p/1A4dz27ujU/
–––––––––––––––
Tất cả những thành phần cấu tạo ngũ uẩn đều vô ngã.
Nhìn xuyên qua những đặc tính của các uẩn ta thấy điều nầy trở thành hiển nhiên. Bản Chú Giải mô tả những đặc tính ấy như sau: Không vâng lời làm theo ý muốn ta là một đặc tính của vô ngã.
Trong kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, đặc tính nầy được diễn tả qua câu: “Ta không thể sai bảo sắc pháp, ‘Thân ta hãy như thế nầy’.”
Lại nữa trong kinh nầy có câu “… nó có chiều hướng gây đau khổ…”. Bản chất gây đau khổ, làm khó chịu, áp bức, hay cưỡng chế, phải được xem là một hình thức khác của đặc tướng vô ngã.
Trong bài kinh cũng có sự tìm hiểu, “Ṅhận là tự ngã cái gì luôn luôn biến chuyển thì có thích nghi không?”
Khi người hành thiền quan sát những đặc tướng trên mỗi khi nó khởi sanh thì phát triển trí tuệ nhận thấy rằng cả hai, sắc uẩn và danh uẩn, đều không phải là tự ngã mà chỉ là những hiện tượng không ngừng sanh diệt.
Tuệ này được gọi là anattānupassanā ñāṇa, tuệ giác phát triển do công phu quán niệm những đặc tính vô ngã.
Bài kinh (sutta) này được gọi là Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, vì đề cập đến những đặc tính vô ngã.
Khó Thấu Hiểu Ðặc Tướng Vô Ngã
–––––––––––––––
“Ðặc tướng vô thường và khổ có phần dễ hiểu, nhưng đặc tướng vô ngã thì khó thông hiểu”, chú giải Sammohavinodanī nói như vậy.
Theo chú giải này, những lời than như “Than ôi, thật là vô thường, quả thật là phù du tạm bợ” sẵn sàng đến với tâm ta mỗi khi vô tình làm rớt bể một cái hủ.
Lại nữa khi bị mụt nhọt, một vết thương hay bị gai đâm chích ta liền than thầm, “Than ôi, quả thật đau nhức, khó chịu”.
Bằng cách ấy đặc tướng vô thường và khổ được nhận thấy rõ ràng và dễ hiểu.
Nhưng cũng như rất khó mà chỉ cho ai khác tìm một vật nằm trong tối, không thể hiểu biết dễ dàng đặc tướng vô ngã.
Ðặc tướng vô thường và khổ được hiểu biết rộng rãi, ở trong cũng như ở ngoài giáo lý nhà Phật, nhưng đặc tướng vô ngã chỉ được đề cập đến trong Phật Giáo.
Những vị ngoài Phật Giáo như đạo sĩ ẩn dật Sarabaṅga chỉ có thể thuyết giảng về bản chất vô thường và đau khổ, còn lý vô ngã thì vượt hẳn ra ngoài tầm hiểu biết của các Ngài.
Nếu các vị đạo sĩ ấy có thể dạy lý vô ngã thì những đệ tử của họ đã có thể chứng đắc Ðạo Tuệ và Quả Tuệ, nhưng vì các Ngài không thể dạy nên không có ai thành đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả.
Phẩm chất và đặc tính cá biệt đặc thù của một Ðấng Chánh Ðẳng Chánh Giác là có đủ khả năng giảng dạy lý vô ngã.
Những vị đạo sư ngoài Phật Giáo không tiến được đến mức tế nhị và sâu sắc của giáo lý nầy.
Bản Chú Giải nói rằng giáo lý vô ngã thâm sâu đến độ chí đến Ðức Thế Tôn cũng phải dựa trên đặc tướng vô thường hoặc đặc tướng đau khổ hoặc cả hai cùng một lúc để giải thích dễ dàng.
Bản Phụ Chú Giải giảng rộng thêm: “Trong tuyên ngôn trên của Bản Chú Giải, ngoài Phật Giáo hai đặc tướng anicca và dukkha, vô thường và khổ, chỉ được hiểu theo nghĩa chế định (tục đế), nên không thể dùng làm phương tiện để chứng ngộ lý vô ngã.
Chỉ có vô thường và khổ hiểu theo chân lý cùng tột (chân đế) mới có thể xử dụng để giải thích lý vô ngã.”
Sư đã dùng Phụ Chú ấy để mô tả khái niệm chế định (tục đế) và khái niệm cùng tột (chân đế) của anicca và dukkha, trong sách Sīlavanta Sutta. Có thể tham khảo để có thêm chi tiết.
Thấy Vô Ngã Qua Ðặc Tướng Vô Thường
–––––––––––––––
Trong kinh Chachakka Sutta, phần Uparipaṇṇāsa của bộ Majjhima Nikāya, Trung Bộ Kinh, ta thấy đặc tướng vô thường được dùng làm phương tiện để giải thích đặc tướng vô ngã.
Theo bài Kinh nầy người hành thiền phải hiểu sáu phân hạng của sáu yếu tố như sau:
1. Sáu căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý;
2. Sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp;
3. Sáu loại thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức;
4. Sáu loại xúc (phassa): sự tiếp xúc xuyên qua mắt, qua tai, qua mũi, qua lưỡi, qua thân và qua tâm;
5. Sáu loại thọ: cảm thọ xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm;
6. Sáu loại tham ái: khát khao ham muốn được thấy hình thể, được nghe âm thanh, được hửi mùi, được nếm vị, được sờ đụng và cảm kích.
Nơi đây theo Bản Chú Giải, đoạn “phải hiểu biết” có nghĩa là “phải hiểu biết xuyên qua công phu quán niệm minh sát, vipassanā, hiểu biết bằng trí tuệ của Thánh Ðạo”.
Do đó mỗi khi một vật được thấy, vật ấy phải được chú tâm ghi nhận (niệm) ⒈ để mắt và ⒉ đối tượng được thấy, ⒊ nhãn thức, ⒋ nhãn xúc và ⒌ thọ cảm xuyên qua mắt, khởi sanh hiển hiện rõ ràng cùng lúc trong khi thấy. Và trong lúc thấy nếu có ⒍ sự ưa thích hay ham muốn vật ấy khởi sanh, sự ưa thích và ham muốn ấy phải được ghi nhận, “ưa thích, ưa thích”.
Cùng thế ấy, trong khi nghe, khi hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư phải hiểu biết sáu hạng sáu đối tượng ấy.
Vị hành giả mà hay biết đúng lúc như vậy tự cá nhân mình sẽ nhận thức rằng mắt, đối tượng được thấy và sự thấy (nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt.
Vị ấy chứng nghiệm, “Trước đây ta nghĩ rằng có một thực thể thường còn, một tự ngã hằng cửu. Giờ đây, qua sự chứng nghiệm bằng cách thật sự quán sát ta nhận thức rằng chỉ có những hiện tượng thiên nhiên không ngừng sanh diệt.”
Nhận thức rằng không có một tự ngã, không có một thực thể sống, người hành thiền có thể ngạc nhiên không biết mình ngồi đây hành thiền cho ai.
Xuyên qua sự hiểu biết đầy đủ về bản chất vô thường của vạn hữu hành giả chứng ngộ rằng không có một tự ngã.
Ðể chỉ dạy rõ ràng kinh nghiệm thực tiển nầy Ðức Thế Tôn tiếp tục bài kinh Chachakka Sutta như sau:
“Phần nhạy của mắt, là nền tảng của sự thấy (nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt mỗi khi thấy; do vậy nó không phải thường còn, không tồn tại vĩnh viễn, không phải là thực thể hằng cửu vững bền, là tự ngã, như hình như nó là vậy.
Nếu ta nói: ” ‘mắt là tự ngã’ thì cũng giống như nói rằng tự ngã của ta khởi sanh và hoại diệt, không ổn định, không tồn tại vững bền.
Do đó ta phải kết luận rằng ⒈ phần nhạy của mắt không phải là tự ngã.”
Cùng thế ấy ta có thể kết luận tương tợ đối với ⒉ màu sắc hình thể (đối tượng của sự thấy), ⒊ nhãn thức, ⒋ nhãn xúc (tức sự tiếp xúc giữa mắt và đối tượng của mắt), ⒌ cảm thọ do nhãn xúc, và ⒍ sự ưa thích và ham muốn của mắt: tất cả đều không phải tự ngã.
Ðó là phương cách mà sáu hiện tượng, trở thành nổi bật vào lúc nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, được xem là vô ngã.
Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Ðặc Tướng Ðau Khổ
–––––––––––––––
Chính trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, đặc tướng vô ngã được giải thích bằng đặc tướng khổ như sau: “Vì hình sắc không phải là tự ngã của ta nên có chiều hướng gây đau khổ cho ta.”
Cái gì cưỡng chế hay áp bức ta là đáng cho ta sợ, là nguyên nhân gây đau khổ và rất hiển nhiên là một nguồn đau khổ, không thể là chính ta, là tự ngã, là thực thể sống bên trong ta.
Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Cả Hai Ðặc Tướng, Vô Thường Và Khổ
–––––––––––––––
Nhằm giải thích đặc tướng vô ngã bằng cả hai, vô thường (anicca), và khổ (dukkha), Ðức Thế Tôn dạy:
“Thân không thường còn.
Cái gì không thường còn là (nguyên nhân gây) đau khổ.
Cái gì đau khổ không phải là tự ngã.
Cái gì không phải tự ngã phải được nhận thức với trí tuệ thích nghi theo đúng sự thật là: ‘⑴ Ðây không phải là của tôi, ⑵ cái này không phải là tôi, ⑶ cái này không phải là tự ngã của tôi’.”
Tóm tắt, cơ thể vật chất phải biến đổi và khổ đau, và như vậy không phải là tự ngã.
Xem là “của tôi” cái gì thật sự không phải tự ngã thì không thích nghi;
lầm lạc tự nghĩ “tôi là…, tôi có thể làm…”, là không thích nghi;
xem đây là “tự ngã của tôi”, là “chính tôi” là không thích nghi.
Như thế ấy sắc, hay cơ thể vật chất, phải được nhận ra và xem đúng theo thực tại.
Cùng một thế ấy, do những đặc tướng vô thường và khổ, thọ, tưởng, hành và thức cũng phải được xem là không phải tự ngã.
Trong phần sau của kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, ta sẽ thấy bản chất vô ngã được mô tả căn cứ trên đặc tướng vô thường (anicca) và đau khổ (dukkha).
Những khái niệm vô thường và khổ, anicca và dukkha, được biết và được chấp nhận rộng rãi, nhưng lý vô ngã thì không mấy được chấp nhận bên ngoài Phật Giáo.
–––––––––––––––
Hãy chia sẻ khi thấy bài viết này mang lại hoan hỷ và lợi ích cho mọi người. Pháp thí, thắng mọi thí!
Nguyện mong cho Chánh pháp của Đức Phật Gotama được lan tỏa rộng khắp mang lại lợi lạc cho chư thiên và loài người sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự – Niết bàn.
Mọi bài viết, hình ảnh trên FB Sumangala Bhikkhu Viên Phúc và Website: http://ehipassiko.info có thể chia sẻ và sử dụng không cần xin phép.
–––––––––––––––
“THẾ GIỚI RỖNG KHÔNG”
https://youtube.com/playlist…
YOUTUBE LINKS Các bài pháp thoại tại Khóa thiền minh sát tứ niệm xứ tích cực và nghiêm mật, tại Tu viện Bodhivana, Malaysia 9.1.2025 – 15.1.2025, theo truyền thống Đại trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw với chủ đề “MANG THEO GÌ❓ĐI VỀ ĐÂU❓”, hướng dẫn bởi Thiền sư Viên Phúc Sumangala – Thiền viện Tharmanaykyaw Mahagandhayon, Yangon, Myanmar.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB