Bài 12 – Thức Là Vô Ngã

Bài 12 – Thức Là Vô Ngã Vì Thức Gây Ra Khổ Đau Và Không Thể Điều Khiển

https://www.facebook.com/share/p/18FacZg4iP/

–––––––––––––––

Viññāṇaṁ bhikkhave anattā; viññāṇañca h’idaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ viññāṇaṁ ābādhāya saṁvatteyya. Labbhetha ca viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṁ anattā tasmā viññāṇaṁ ābādhāya saṁvattati na ca labbhati viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ mā ahosīti.

“Nầy chư Tỳ Khưu, thức là vô ngã…”

Danh từ thức ở đây có nghĩa là ⑴ nhãn thức, ⑵ nhĩ thức, ⑶ tỷ thức, ⑷ thiệt thức, ⑸ thân thức và ⑹ ý thức.

Sáu loại thức nầy thường được chấp là tự ngã, một thực thể sống: “Chính tôi thấy; tôi thấy”. “Chính tôi nghe; tôi nghe”. Như vậy tất cả sáu loại thức được xem chỉ là của một tự ngã duy nhất.

Loại chấp ngã nầy cũng dễ hiểu: những vật không có sự hiểu biết như khúc gỗ, như nấm đất, hay viên gạch, được xem là vô tri giác; chỉ những sự vật có khả năng hiểu biết được xem là hữu tri hữu giác, một thực thể sống. Vì thế ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng nhãn thức, nhĩ thức v.v… được xem là tự ngã, nhưng trong thực tế nó cũng không phải là tự ngã, không phải là thực thể sống.

Ðức Thế Tôn tuyên ngôn rằng thức không phải là tự ngã, và Ngài giải thích như sau:

“Nếu thức là tự ngã, là thể chất bên trong ta, ắt nó không có khuynh hướng gây đau khổ cho ta; thế thường ta không cố ý cưỡng chế, áp bức, làm cho chính ta đau đớn khổ sầu.

Ta cũng phải có thể điều hành như thế nào để luôn luôn chỉ có những trạng thái tâm trong sạch, không bao giờ có tâm ô nhiễm. Nhưng trong thực tế tâm có chiều hướng gây đau khổ, và ta không thể điều khiển và kiểm soát.

Như vậy nó không phải là tự ngã, không phải là thể chất bên trong ta.

Nầy chư tỳ Khưu, trong thực tế thức không phải là tự ngã. Nó có chiều hướng gây đau khổ cho ta và ta không thể sai bảo thức, “Thức của ta phải như thế nầy (luôn luôn trong sạch), thức của ta phải không như thế kia (ô nhiễm)”.

Giữa tâm (citta) và năm mươi hai tâm sở (cetasikā) phần đông chúng ta quen thuộc với tâm hơn.

Người Miến Ðiện thường nói đến tâm, nhưng rất ít khi đề cập đến các tâm sở như phassa (xúc, sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng của nó) luôn luôn đi chung với tâm.

Hơn nữa, họ xem cái tâm là tự ngã, là “ta”: “Chính tôi thấy, tôi thấy”, “chính tôi nghe, tôi nghe”.

Không phải chỉ có chúng sanh trong cảnh người mà chư Thiên (Devas) và những chúng sanh khác cũng tin tưởng rằng thức, hay tâm, là tự ngã.

Tuy nhiên, thức quả thật không phải là tự ngã. Vì không phải là “ta” nên nó có chiều hướng cưỡng chế, làm cho ta đau khổ.

Thức Cưỡng Chế Ta Như Thế Nào?

–––––––––––––––

Thức cưỡng chế, làm cho ta mất thoải mái khi thấy sự vật nhơ nhớp ghê tởm,

khi nghe những âm thanh ồn ào nhức tai, những lời nghịch nhĩ, bất nhã,

khi ngửi những mùi hôi thúi,

khi nếm những vật thực mà mình không thích,

khi sờ đụng một vật làm cho mình khó chịu,

khi nghĩ đến một việc đáng sợ, đáng ghét, hay có những ý tưởng buồn phiền, sầu muộn.

⑴ Tất cả chúng sanh đều thích sống ở một nơi vừa ý, muốn thấy những cảnh đẹp, nhưng cuộc đời đưa đẩy lắm khi phải gặp những cảnh tượng ghê tởm nhớp nhúa. Ðối với người bất hạnh, phần lớn những gì mình thấy chỉ làm bất toại nguyện. Ðó là nhãn thức có khuynh hướng cưỡng chế, làm cho ta khó chịu.

⑵ Thay vì được nghe những âm thanh êm dịu, những lời lẽ làm mát lòng như ý muốn thì có những trường hợp không may phải chịu nghe những tiếng động rền tai, rùng rợn, những tiếng nói hăm dọa, những lời nguyền rủa. Ðó là phương cách mà nhĩ thức áp chế, làm cho ta bực bội, mất thoải mái.

⑶ Lại nữa, tất cả chúng sanh đều muốn thưởng thức những mùi thơm nhưng phải chịu cảnh chỉ được hửi những mùi hôi thúi. Ðó là trường hợp tỷ thức cưỡng chế.

Trạng thái cưỡng chế của nhãn thức, nhĩ thức và tỷ thức đối với chúng sanh trong cảnh người không đến nổi hiển nhiên như trong thế gian cầm thú, hay trong những cảnh ngạ quỷ (peta) và địa ngục. Trong các cảnh giới nầy, bản chất cưỡng chế của thức uẩn càng rõ ràng nổi bật hơn nhiều.

Những sinh vật trong thế gian loài thú luôn luôn thấy những điều ghê sợ, nghe những tiếng động hải hùng rùng rợn, và những con vật sống ở những nơi nhơ nhuốc bẩn thỉu lúc nào cũng hửi mùi hôi thúi.

Càng đau khổ hơn loài thú rất nhiều là hạng ngạ quỷ, những chúng sanh đói khát cùng cực, và càng khổ hơn nữa là cảnh địa ngục. Họ mãi mãi đắm chìm trong tình trạng khốn khổ nguy nan, thấy những cảnh hải hùng rùng rợn, nghe những âm thanh hung tợn, và hửi những mùi ô trược.

Trong một vài cảnh địa ngục tất cả những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được sờ đụng đến và những ý tưởng nghĩ đến đều làm kinh sợ, tuyệt đối không có gì đẹp đẽ êm dịu.

Chúng sanh trong những cảnh giới ấy mãi mãi sống trong trạng thái khốn khổ, luôn luôn bị sáu loại thức cưỡng chế. Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức luôn luôn gây phiền não, đau khổ.

⑷ Tất cả mọi người đều muốn thưởng thức những món ăn vừa miệng, nhưng người vô phúc phải luôn luôn sống với những vật thực mà mình không thích. Ðó là tình trạng cưỡng chế của thiệt thức.

Ðây cũng vậy, sự áp bức của thiệt thức càng hiển nhiên nổi bật trong bốn khổ cảnh.

Dầu trong cảnh người, ai cũng muốn dùng những thức ăn vừa miệng, nhưng lắm khi vì hoàn cảnh như đau ốm chẳng hạn, phải gắng gượng cố nuốt những vật thực mà mình không muốn.

Ðôi khi muốn chết cho rồi, để thoát ra khỏi những cảnh khổ đau như vậy. Dĩ nhiên, trong bốn khổ cảnh chúng sanh còn muôn phần khốn khổ hơn.

⑸ Người đời thường muốn sống thoải mái thong dong, ít phải bận tâm lo lắng, nhưng hoàn cảnh không để yên cho chúng ta sống như vậy.

⑹ Nhiều người phải vất vả buồn phiền, chán nản thất vọng, sầu não và than van.

Vài người suốt đời không bao giờ vượt thoát ra khỏi cuộc sống hạn hẹp đầy đau khổ và vô phúc. Họ luôn luôn phải bận tâm lo lắng về cuộc sống. Họ là nạn nhân của thức uẩn.

>>> Thức không tùy thuộc ý muốn của ta mà sanh khởi do hoàn cảnh quyết định. Ta không thể kiểm soát hay điều khiển thức uẩn.

⒈ Mặc dầu muốn thấy hình ảnh vui tươi xinh đẹp và thích thú nhưng không thể được. Trái lại, ta phải gặp toàn là những điều gai mắt. Ðó là một thí dụ về nhãn thức.

Nó không theo ý muốn, không nằm dưới quyền điều khiển và kiểm soát của ta mà chỉ sanh khởi tùy duyên, tự động phát sanh tùy thuộc điều kiện.

⒉ Cùng thế ấy, mặc dầu ta muốn chỉ nghe những âm thanh êm dịu, những lời lẽ làm vừa lòng, nhưng không thể được. Do đó, đôi khi cần phải mở máy ghi âm hay vô tuyến truyền thanh để được nghe những âm thanh mà mình thích hay những lời nói êm tai. Ta không thích nghe những tiếng động ồn ào nhưng khi nó vừa phát lên thì nhanh chóng lọt vào tai ta, không thể tránh.

Nhãn thức tự nhiên tự chính nó tùy duyên khởi sanh mà không chịu quyền điều khiển hay quyền kiểm soát của ta.

⒊ Ðối với tỷ thức cũng thế. Mặc dầu ta thích thưởng thức những mùi thơm dịu ngọt, nếu không được ắt không thỏa mãn. Do đó chúng ta đi tìm những loại trầm hương, các thứ dầu thơm và trồng những giống hoa có mùi thơm. Tuy nhiên, trong một vài cảnh ngộ chúng ta phải hít vào những mùi hôi thúi khó chịu, có khi những hơi độc có thể làm tổn hại đến sức khoẻ.

Ðó là những trường hợp cho thấy rằng ta không thể điều khiển hay kiểm soát tỷ thức theo ý muốn, mà nó chỉ khởi sanh do nguyên nhân và cơ duyên.

⒋ Mặc dầu ta muốn thưởng thức những vị ngọt bùi dễ chịu, nhưng nếu không có thức ăn vừa khẩu vị thì thiệt thức thích thú ắt không thể phát sanh. Do đó hằng ngày chúng ta tận lực gia công mong tìm những thức ăn ngon. Nhưng đến khi đau ốm, để chữa trị, chúng ta phải dùng thuốc đắng mà dĩ nhiên ta không thích.

Ðiều nầy cho thấy rằng ta không thể điều khiển hay kiểm soát thiệt thức.

⒌ Thân thức, cảm giác của thân, chỉ có thể thích thú khi có những đồ vật vừa ý như quần áo xinh đẹp, giường ấm, nệm êm hay chỗ ngồi thoải mái.

Muốn được vậy phải luôn luôn chuyên cần cố gắng để thâu thập những sự vật, vô tri giác và hữu giác hữu tri, để tạo những cảm giác thích thú của thân.

Khi quá lạnh hay quá nóng, khi bị gai nhọn đâm chích, bị phỏng lửa, bị khí giới gây thương tích, hoặc lúc lâm trọng bệnh, chúng ta phải đau nhức dầu không muốn chịu hậu quả khó chịu của thân thức.

Như vậy rõ ràng ta không thể kiểm soát hay điều khiển thân thức. Nó chỉ tự động khởi phát khi hội đủ nhân và duyên.

⒍ Mỗi người đều muốn có đời sống hạnh phúc, an vui và thoải mái vừa lòng, nhưng chỉ có thể thành tựu được như thế khi có đủ tiền của và phương tiện. Vậy phải luôn luôn tận lực cố gắng để bảo trì cuộc sống.

Trong khi mong tìm phương tiện để sống tiện nghi thoải mái và vui vẻ, thì lại phải bận tâm suy tư về những nổi khó khăn của cuộc sống hằng ngày – về người thân kẻ yêu, về thân bằng quyến thuộc, về ông chồng hay bà vợ hoặc con cái qua đời, về những vấn đề tài chánh, về công ăn việc làm, về tuổi già và sức yếu v.v… – có thể khởi sanh bất cứ lúc nào và làm hỏng hết hạnh phúc của chúng ta.

Ðó là phương cách mà ý thức khởi sanh, tự động và tùy thuộc nhân duyên. Ta không thể điều khiển và kiểm soát.

Nguyên Nhân Sanh Khởi

–––––––––––––––

Chúng ta đã dùng những từ ngữ “tùy theo nhân và duyên”. Câu nầy hàm ý “những hoàn cảnh và điều kiện nguyên nhân như thế nào sẽ đưa đến hậu quả như thế nào”; cũng có nghĩa là nguyên nhân tốt tạo những hậu quả tốt, nhân xấu đưa đến quả xấu.

Không có hậu quả nào sanh khởi chỉ vì ý ta muốn. Quả như thế nào sẽ phát sanh do những nhân như thế nào, dầu ta có muốn vậy hay không. Hậu quả được tạo do những nguyên nhân tương ứng, ta không thể kiểm soát và điều khiển.

Như vậy rõ ràng nó không phải là “ta” hay tự ngã, không phải là bản thể bên trong ta.

Ðức Thế Tôn dạy rằng ý thức không phải là tự ngã bởi vì ta không thể sai bảo hay điều khiển nó như thế nào theo ý muốn.

① Ðức Thế Tôn dạy như vậy nhằm giúp ta diệt trừ chấp thủ sāmi attā, vốn chủ trương rằng có một tự ngã nằm bên trong con người mà ta có thể kiểm soát và điều khiển theo ý muốn.

② Một khi đã loại trừ sāmi attā thì nivāsī attā, chấp thủ rằng có một tự ngã trường tồn thường xuyên nằm bên trong con người, cũng đồng thời được tẩy sạch.

Khi đã nhận thức rõ ràng rằng thức chỉ khởi sanh và hiện hữu do nhân duyên và nhanh chóng tan biến, ta chứng nghiệm hiển nhiên rằng không có cái gì như một tự ngã bền vững thường còn.

Thí dụ như nhãn thức chẳng hạn, chỉ khởi sanh khi có mắt và đối tượng của sự thấy, tức nhãn căn và nhãn trần.

Cùng thế ấy nhĩ thức chỉ khởi sanh khi có nhĩ căn và nhĩ trần, tỷ thức chỉ khởi sanh khi có tỷ căn và tỷ trần, thiệt thức chỉ khởi sanh khi có thiệt căn và thiệt trần, thân thức chỉ khởi sanh do thân và đối tượng được sờ đụng, và ý thức chỉ khởi sanh khi có tâm và đối tượng tâm linh, tức ý và pháp.

Khi hiểu biết rõ ràng những nguyên nhân tạo điều kiện đưa đến hậu quả thích ứng như thế nào, ý niệm chấp thủ một thực thể vĩnh tồn, nivāsī attā, tự nhiên tiêu diệt.

③ Vị hành giả có chánh niệm, luôn luôn ghi nhận tiến trình sắc và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, sẽ nhận chân rõ ràng rằng thức luôn luôn khởi sanh và nhanh chóng tan biến, tùy thuộc những điều kiện (tùy duyên).

Như vậy hành giả hiểu biết rõ ràng rằng không có một tự ngã hay thực thể sống đem lại sự thấy.

Vị ấy chứng nghiệm thật sự rằng nhãn thức chỉ khởi sanh khi có đúng những điều kiện kết hợp đầy đủ, tức khi hội đủ nhân duyên.

Bằng cách ấy hành giả loại trừ chấp thủ kāraka attā, tin tưởng rằng tất cả những hành động, bằng thân, khẩu, ý, đều do một tự ngã chủ động.

>>> Những vị không thể nhận thức bản chất thật sự của thức đúng như thật sự thức là vậy ắt còn chấp thủ vững chắc ba hình thức sāmi attā, nivāsī attā, và kāraka attā.

Hình như sự chấp thủ vào thức uẩn càng bền chặt vững chắc hơn các uẩn kia.

Ngày nay ta gọi đó là “linh hồn” hay thực thể sống. Trong ngôn ngữ được dùng thường ngày, thức thường được nhắc đến hơn là thọ, tưởng và hành, mặc dầu tất cả ba uẩn nầy đều là những tâm sở đồng phát sanh với thức.

Người ta xem như chính cái thức cảm giác, chính thức hồi nhớ sự việc, và tạo nguyên nhân đưa đến hành động.

–––––––––––––––

Câu Chuyện Tỳ Khưu Sāti

–––––––––––––––

Vào thời Ðức Thế Tôn còn tại thế có vị tỳ khưu đệ tử tên Sāti, hiểu biết sai lầm rằng thức là tự ngã, và khư khư chấp thủ tà kiến về tự ngã ấy. Vị tỳ khưu Sāti tuyên bố rằng mình hiểu biết và nắm vững lời dạy của Ðức Thế Tôn như sau:

Tadevidaṁ viññāṇaṁ sandavatti saṁsārāti anaññaṁ.

“Chính cái thức nầy được chuyển sinh trong vòng luân hồi từ kiếp nầy sang kiếp kia, không có gì khác.”

Vị tỳ khưu Sāti hiểu biết những lời dạy của Ðức Thế Tôn như thế ấy.

Thầy dựa quan kiến mình trên những câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jātaka) như tích Vua Vessantara, tượng chúa Chaddan, và long vương Bhūridatta, được nói rằng đó là tiền thân của Ðức Phật, là chính Ðức Phật trong một tiền kiếp.

Trong kiếp sống cuối cùng là Ðức Phật, những phần thuộc sắc uẩn của Vua Vessantara, của tượng chúa Chaddan hay của long vương Bhūridatta đã tan rã và biến dạng, nhưng theo sự tin tưởng của Tỳ Khưu Sāti thì danh, tức phần tâm linh của Ðức Phật trong kiếp nầy vẫn còn y là một với phần tâm linh của Vua Vessantara v.v… thức ấy không hoại diệt mà tồn tại vững bền xuyên qua những kiếp sống.

Tỳ khưu Sāti hiểu những lời dạy của Ðức Phật như thế ấy. Ðó chỉ là chấp thủ nivāsī attā, xem thức là một tự ngã liên tục, trường tồn vĩnh cửu.

Những vị đệ tử có học của Ðức Phật cố gắng giải thích cho Tỳ Khưu Sāti rằng hiểu như thế là sai lầm nhưng vị nầy vẫn ương ngạnh, quyết định không nghe, chỉ tin rằng mình hiểu biết Dhamma, Giáo Pháp, nhiều hơn.

Quả thật rất khó chỉ dạy Chánh Pháp cho một người ôm ấp tà kiến.

Họ xem người có lòng tốt muốn giúp họ sửa sai quan kiến lầm lạc, là thấp kém, lạc hậu, không theo kịp đà tiến hóa của xã hội cấp tiến, không phải như các bậc lãnh đạo của họ, có tầm hiểu biết mới mẻ.

Trong thực tế, những ai tự xưng là Phật tử nên thận trọng suy tư xem sự hiểu biết của mình có thích ứng với những lời dạy mà Ðức Phật giáo truyền hay không.

Nếu còn ôm ấp những quan kiến không theo đúng một chiều với Giáo Pháp ắt ta đã đi lệch ra ngoài Phật Giáo.

Không thuyết phục được thầy tỳ khưu Sāti từ bỏ tà kiến của thầy, vài vị sư đem câu chuyện bạch lại với Ðức Bổn Sư và Ngài cho mời thầy đến.

Khi được hỏi, thầy lặp lại quan điểm của mình như sau: “Bạch Ngài, dựa trên những câu chuyện Jātaka (Túc Sanh Truyện) mà Ðức Thế Tôn thuật lại, con thấy rằng thức, hay tâm hiện tại, là một với cái tâm trong những kiếp sống quá khứ. Tâm ấy không tiêu diệt mà chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con hiểu như vậy.”

Ðức Phật hỏi thầy hiểu thức là gì?

“Bạch Ngài, thức là cái gì diễn đạt ý nghĩ của mình, cái gì cảm thọ, cái gì kinh nghiệm hậu quả của những hành động tốt hay xấu (ở nơi đây hay một nơi nào), trong kiếp nầy hay trong một kiếp sống nào.”

– Nầy con người cuồng si, con đã nghe Như Lai diễn giải giáo lý cho ai như thế ấy?”

Ðức Thế Tôn khiển trách, Ṅhư Lai giải thích rằng thức chỉ khởi sanh do nhân và duyên. Nếu không có nhân duyên tạo điều kiện ắt thức không thể phát sanh.

Thay vì thế, con diễn giải sai lầm và cho rằng đó là lời dạy của Như Lai. Bằng cách diễn giải và truyền bá sai lầm lời dạy của Như Lai như thế con tạo nguyên nhân cho nhiều hành động xấu phát sanh và như thế sẽ gây nhiều sầu muộn và đau khổ cho con lâu dài trong tương lai.”

Tuy nhiên, Tỳ Khưu Sāti không chịu từ bỏ tà kiến của mình. Giáo điều cuồng tín quả thật đáng sợ.

Sāti là một vị tỳ khưu, một đệ tử của Ðức Phật. Thầy theo học giáo lý với Ðức Phật và tự xưng là hiểu biết đầy đủ. Vậy mà còn ương nghạnh, không chịu từ bỏ quan kiến sai lầm của mình mặc dầu đã được chính Ðức Phật nhắc nhở khuyên dạy, sửa sai, và như thế mất cả niềm tin nơi Phật Bảo.

Ngày nay cũng có vài vị “đạo sư” dạy rằng không cần phải giữ tròn năm giới và không cần hành thiền. Hiểu biết giáo lý là đủ, các thầy dạy như vậy.

Khi có người học hiểu uyên thâm sẵn lòng tốt muốn soi sáng chánh Pháp cho những “ông thầy dạy đạo” ấy thì họ bướng bỉnh cứng đầu trả lời rằng họ sẽ không từ bỏ quan kiến của riêng mình, dầu chính Ðức Phật có đến để dạy họ cũng vậy.

(Còn tiếp)

Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 18/8/2025