ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẢN THỨ VI Chaṭṭha Saṅgāyanā – 1954

ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẢN THỨ VI Chaṭṭha Saṅgāyanā – 1954 (dịch lại từ bản tiếng Sinhale của Bhikkhu Nyāṇaruchi.)

Đức Thế Tôn, bậc cao quý nhất của ba cõi, sau khi thiết lập giáo Pháp và hoàn thành Phật sự theo truyền thống chư Phật, trước khi nhập Niết–bàn tại vườn Sāḷa Upavattana của người Malla ở Kusinārā, Ngài đã gọi Tôn giả Ānanda và căn dặn về Giáo pháp của mình như sau:

“Siyā kho panānanda, tumhākaṃ evamassa atītasatthukaṃ pāvacanaṃ, natthi no satthāti. Na kho panetaṃ ānanda, evaṃ daṭṭhabbaṃ. Yo kho ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto so vo mamaccayena satthā ti.”

“Này Ānanda, có lẽ các con sẽ có ý nghĩ: Giáo Pháp (lời dạy) này đã không còn Đạo sư nữa, chúng ta không có Đạo sư. Này Ānanda, các con chớ có nghĩ như vậy. Này Ānanda, Pháp và Luật mà Ta đã giảng dạy và chế định, chính đó sẽ là Đạo sư của các con sau khi Ta nhập diệt.”– Kinh Đại Bát Niết–bàn (Mahāparinibbāna Sutta) | Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya).

Từ lời dạy ấy của Đức Thế Tôn, hoàn toàn rõ ràng rằng trong thời kỳ không có sự hiện diện của Đạo sư, thì Pháp và Luật đã được Ngài thuyết giảng chính là Đạo sư của các đệ tử. Các bậc Thánh đệ tử, con trai của Đức Phật, hậu duệ của dòng họ Sakya, những người đã bước vào Giáo pháp, hiểu rõ bằng các lý lẽ rằng chừng nào Pháp và Luật còn nguyên vẹn, chừng đó Giáo pháp còn được bảo tồn. Sau khi Đức Phật nhập Niết–bàn, trong những thời kỳ khác nhau, các Ngài đã loại bỏ những ô nhiễm nổi lên và phát triển chống lại Giáo pháp, trục xuất những người phá hoại Giáo pháp và thực hiện sự thanh tịnh hóa Giáo pháp. Các Ngài đã làm những gì cần thiết để Giáo pháp tồn tại lâu dài.

Kể từ khi Đức Phật nhập Niết–bàn cho đến nay, chư Tăng đã tổ chức sáu kỳ Kết tập Kinh Điển (trước là “Kết tập Pháp”). Lịch sử Giáo pháp làm chứng cho điều đó.

Ba kỳ Kết tập Kinh Điển đầu tiên được mọi người biết đến rộng rãi. Kỳ Kết tập Kinh Điển lần thứ tư là Kỳ Kết tập Sách (Potthaka Saṅgāyanā), được tiến hành tại Aluvihāra, Matale, Sri Lanka dưới thời vua Vaḷagambā. Tại đó, toàn bộ Tam Tạng và các Chú Giải đã được ghi chép vào sách lá bối, tạo thành bản kinh điển thành văn.

Nhân đây, Trưởng lão Mahānāyaka Palāne Vajirañāṇa, bậc vô cùng tôn kính, khi ghi chép về sự hộ trì Giáo pháp ở Sri Lanka, đã viết như sau:

Ngay cả khi xét về Pháp học (Pariyatti Sāsana), chính tại đây (Sri Lanka) mà Tam Tạng Pāḷi lần đầu tiên được ghi chép thành văn (được viết và lưu giữ trong sách). Chính tại đây, các Chú Giải được viết bằng tiếng địa phương, và sau đó được chuyển sang tiếng Pāḷi; và chính tại đây, các sớ giải (ṭīkā), phụ chú giải (anuṭīkā), giải thích ý nghĩa (atthayojanā), phụ lục (sanna), từ điển (gaṭapada saṅgaha), và các tài liệu tham khảo (ni:śraya) về các Chú Giải và kinh điển đã được viết ra. Tu viện Mahāvihāra ở Anurādhapura, Sri Lanka, là nơi khởi nguồn của truyền thống Trưởng lão (Thera–vaṃsa) đã kế thừa và bảo tồn Phân Biệt Thuyết (Vibhajja–vāda) có nguồn gốc từ Đức Phật. Nhiều giáo lý Theravada và các câu chuyện điển hình được tìm thấy trong các Chú Giải bắt nguồn từ truyền thống Mahāvihāra này đều liên quan đến Sri Lanka. Phương pháp giải thích lời dạy của Tam Tạng một cách thích hợp (= con đường tụng đọc – vācanāmārga) cũng bắt đầu ở đây. Chính từ đất nước này mà những phương pháp tụng đọc và sách vở này sau đó đã được gửi đến các quốc gia khác. Chính những bậc cao quý của đất nước này đã hy sinh cuộc đời mình trong nạn đói Bāminitiyā để bảo vệ Pháp học.

Sau đó, có thông tin về hai kỳ Kết tập Kinh Điển gần gũi với chúng ta trong quá khứ gần đây. Kỳ Đại Kết tập Kinh Điển lần thứ năm được tổ chức vào năm 1871 tại Mandalay, Miến Điện (nay là Myanmar), dưới sự bảo trợ của Vua Mindon (1853–1878). Tại đó, có ba vị chủ tọa: Trưởng lão Paramapūjanīya Jagārābhivaṃsa, Trưởng lão Narindābhidhaja và Trưởng lão Sumaṅgalasāmi. Kỳ Kết tập Kinh Điển và Luật này được tiến hành trong hội chúng gồm 2400 vị Tỳ–khưu kéo dài suốt năm tháng. Một sự kiện đặc biệt ở đây là sau đó, toàn bộ Tam Tạng đã được khắc thành văn trên 729 phiến đá cẩm thạch.

Kỳ Kết tập Kinh Điển lần thứ sáu, mà chúng ta đặc biệt đề cập đến ở đây và giới thiệu với quý vị qua hình ảnh, là một sự kiện lịch sử vì nó diễn ra tại Miến Điện, 83 năm sau kỳ Kết tập Kinh Điển lần thứ năm. Nhân dịp kỷ niệm 2500 năm Phật đản, một hang động nhân tạo tương tự như hang Saptaparṇī đã được xây dựng tại Yangon, được gọi là Hang Mahāpāsāṇa (Kaba aye). Kỳ Kết tập Kinh Điển này được bắt đầu vào ngày 17 tháng 5 năm 1954, dưới sự bảo trợ của chính phủ Miến Điện, do Thủ tướng lúc bấy giờ là Ngài U Nu đứng đầu.

Một điểm đặc biệt khác của Kỳ Kết tập Kinh Điển lần thứ sáu là sự tham dự của các vị Tỳ–khưu uyên bác và có năng lực từ tám quốc gia: Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Sri Lanka, Ấn Độ, Nepal và Đức. Đức được tính vào là do sự hiện diện của Trưởng lão Đức Ñāṇapoṇika, người đã mang thông điệp từ Trưởng lão Đức Ñāṇatiloka, lúc đó đang trú tại Sri Lanka. Nhiều vị Trưởng lão thông thạo Pháp và Luật từ Sri Lanka cũng đã tham gia theo từng thời điểm (không phải tất cả Tỳ–khưu). Trong số đó, các vị Trưởng lão như Paramapūjanīya Balaṅgoḍa Ānandamaytreya, Baddegama Piyaratana, Veliwita Saraṇaṅkara, Kirivatthuḍuve Paññāsāra, Dehigahahenne Paññāsāra, Kuḍirippuve Paññāsāra, Polwatte Buddhadatta, Kamburugamuve Mahānāma, Veligama Ñāṇaratana, Kaḷukoṇḍayāve Paññāsekhera, Maḍihe Paññāsīha, Hapuvālane Ñāṇāloka, Mātale Sāsanatilaka, Medauyangoda Vimalkitti, Idduruve Uttarānanda, Labugama Laṅkānanda, Halgasthota Devānanda, Sōma và Kheminda của Vajirārāma, cùng nhiều vị khác từ Sri Lanka đã quang lâm đến địa điểm Kết tập Kinh Điển.

Trong hội chúng Tăng–già tại Hang Mahāpāsāṇa, Đức Trưởng lão Vicittasāra (Mingun Sayadaw), người đã thực hiện nhiệm vụ Trả lời (Visajjaka) các câu hỏi về Pháp và Luật, giống như Đức Upāli và Đức Ānanda, và đã chủ trì cả hai Tòa Thượng Tọa. Ngài là Tipiṭakadhārī (người thuộc Tam Tạng), Mahā Tipiṭakakōvida (bậc thông thái lớn về Tam Tạng), Dharmabhaṇḍāgārika (Người giữ kho Pháp), Abhidhaja–Mahā Raṭṭhaguru (Bậc Thầy vĩ đại được kính trọng của Quốc gia), Abhidhaja–Agga Mahā Saddhamma Jōtika (Ngọn đèn Chánh Pháp tối thượng), và Thư ký Hội đồng Tăng–già Myanmar. Vị đã thực hiện nhiệm vụ Hỏi (Pucchaka) về Pháp và Luật, giống như Đức Mahākassapa trong Kỳ Kết tập Kinh Điển đầu tiên, là Ngài Ū Sobhana (Mahāsi Sayadaw), Aggamahāpaṇḍita (Đại Hiền giả tối thượng), Mahā–kammaṭṭhānācārya (Đại Thiền sư). Hai vị cao quý này là hình mẫu lý tưởng của chư Tăng trong công trình vĩ đại được ghi bằng mực vàng trong lịch sử Giáo pháp. Công lao to lớn mà kỳ Kết tập Kinh Điển lần thứ sáu này đã đóng góp cho Giáo pháp, bằng cách kiểm định toàn bộ Tam Tạng, Chú Giải, các bản tóm tắt, sách ngữ pháp, làm sạch các dị bản và thực hiện các điều chỉnh cần thiết một cách thuận lợi cho Giáo pháp, là vượt ngoài lời nói.

Kỳ Kết tập Kinh Điển kéo dài trong hai năm. Các bản sao của Tam Tạng, Chú Giải, Sớ Giải (ṭīkā), các bản tóm tắt và sách ngữ pháp đã được kiểm tra cẩn thận, ghi nhận các khác biệt, thanh lọc và thực hiện các điều chỉnh cần thiết phù hợp với Giáo pháp. Cuối cùng, sau khi được Hội đồng chính thức phê duyệt, tất cả các sách của Tam Tạng và các bản giải thích của chúng đã được chuẩn bị để in ấn tại các nhà in hiện đại, và các bản tiếng Miến Điện đã được xuất bản. Việc phân phát cũng đã được tiến hành. Với sự tham gia của 2500 vị Tỳ–khưu, Kỳ Kết tập Kinh Điển và Luật Theravada này đã hoàn thành tất cả các công việc vào buổi tối ngày 24 tháng 5 năm 1956, nhằm ngày Vesak, hai nghìn năm trăm năm sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết–bàn.

Chỉ còn vài năm nữa là đến Kỷ niệm 2600 năm Phật đản. Mong ước của tất cả chúng ta là thấy sự xuất hiện của một cộng đồng Đại Tăng–già, những vị Tỳ–khưu đã học tập Pháp (Pariyatti–dhara) và thực hành Pháp (Paṭipattikāmī), có trí tuệ kiên định đối với Tam Tạng. Vì thế, chúng ta không nên chỉ dừng lại ở lời cầu nguyện, mà tất cả chúng ta hãy quyết tâm không chậm trễ làm những việc cần thiết để bảo vệ Giáo pháp, như Đức Thế Tôn đã thuyết giảng. Hộ Trí (Theruvan Saraṇayi)!

© Bhikkhu Nyāṇaruchi

Nguồn: Tran Trung Hieu

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 29/10/2025