Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ Và Dựa Trên Sự Thực Hành Minh Sát Thân (Sắc) Quán Niệm Xứ Thế Nào

Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ Và Dựa Trên Sự Thực Hành Minh Sát Thân (Sắc) Quán Niệm Xứ Thế Nào?

https://www.facebook.com/share/p/1BNjkZKeEr/

#KinhVôNgãTướng #MyanmarSayadaw

#MahasiVietBook

–––––––––––––––

Sư [Mahasi Sayadaw] đã đề cập đến vấn đề vô thường một cách đầy đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng đau khổ.

“Cái gì là vô thường, cái ấy là bất toại nguyện hay vừa lòng?” Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi.

Năm vị tỳ khưu trả lời, “Bạch Ngài, là bất toại nguyện.”

Hai Loại Ðau Khổ (Dukkha)

–––––––––––––––

Có hai loại dukkha, đau khổ.

Loại đầu tiên là trạng thái khó chịu đựng, đau khổ. Loại này là dukkha, đau khổ, bởi vì nó có tánh cách áp bức, ray rứt.

Trạng thái luôn luôn chuyển biến, không ngừng sanh diệt, không phải là loại đau khổ này, mà thuộc về loại đau khổ thứ nhì, đúng theo định nghĩa của Bản Chú Giải: “Là đau khổ bởi vì nó đáng sợ”.

Hiện tượng không ngừng sanh diệt quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ, hay để dùng một danh từ của người Miến Ðiện, nó “không tốt”.

Câu hỏi, “Cái gì vô thường là đau khổ hay hạnh phúc, dukkha hay sukha?” cũng giống như hỏi “là xấu hay tốt?” Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời, “Là đau khổ, dukkha”. Hay trong ngôn ngữ của người Miến, đó là “không tốt”.

Lý do nó là dukkha, không tốt, là vì luôn luôn sanh và diệt, và như vậy là đáng kinh sợ. Người ta tưởng tượng sự vật là sukha, tốt, vì sự vật có vẽ như tồn tại lâu dài và ổn định.

Khi nhận ra rằng trong thực tế sự vật không tồn tại lâu dài mà chỉ trong khoảnh khắc và không ngừng tan biến, thì không còn thấy gì sukha, tốt, trong đó.

Ðể sống, chúng ta tùy thuộc nơi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn lúc nào cũng không ngừng tan biến. Nếu vào một khoảnh khắc nào mà ngũ uẩn không biến chuyển đổi mới, ắt chúng ta chết. Ðó là điều đáng kinh sợ.

Cũng giống như ta đang sống trong một ngôi nhà quá cũ, đã hư nát và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Trường hợp một ngôi nhà cũ thì còn có thể hy vọng nó kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm mới sập, nhưng danh uẩn và sắc uẩn bên trong thân ta thì không thể tồn tại dầu trong một giây.

Nó không ngừng tan biến và như thế quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ hơn là ở trong nhà cũ. Do đó ta nói rằng nó là dukkha, đau khổ.

Ðặc tính của dukkha là gì? Theo Bản Chú Giải, abhiṇha sampaṭipīḷanakara dukkha lakkhaṇaṁ: Luôn luôn, áp bức, không ngừng cưỡng chế, là dấu hiệu của dukkha.

Nơi đây luôn luôn áp bức, không ngừng cưỡng chế, hàm ý là trạng thái luôn luôn sanh và diệt của danh uẩn và sắc uẩn. Như vậy, tất cả danh uẩn và sắc uẩn đều được xem là dukkha, những sự vật “không tốt”.

Tự bản thân mình kinh nghiệm, thấy dấu hiệu của dukkha và nhận thức rằng sự vật là đáng sợ, đau khổ, “không tốt”, không đáng tin cậy, là thật sự minh sát đặc tướng bất toại nguyện của sự vật, dukkhānupassanā ñāṇa.

Phát Triển Tuệ Minh Sát Thấu Hiểu Ðặc Tướng Khổ

–––––––––––––––

Trong khi quán niệm danh pháp và sắc pháp, hành giả nhận thấy hiện tượng sanh diệt liên tục diễn tiến trong di động phồng lên và xẹp xuống ở bụng, trong tác động co vào, duỗi ra của tay, hay dở lên, bước tới và đạp xuống của chân.

Hành giả cũng thấy trạng thái khởi sanh và tan biến liên tục diễn tiến mỗi khi niệm đụng, nghe, thấy và nếm.

Vị ấy bắt đầu cảm nhận sự áp bức khó chịu trong những tiến trình sanh và diệt liên tục, và thấy cái chết có thể xảy đến bất luận lúc nào, thấy mình luôn luôn bị áp bức khó chịu, như vậy là đáng kinh sợ. Ðó thật sự là tuệ minh sát về đặc tướng khổ của sự vật dukkhānupassanā ñāṇa.

Nhằm giúp phát triển tuệ giác này, Ðức Thế Tôn hỏi, “Cái gì vô thường là khổ hay lạc, dukkha hay sukha?”

Trong đoạn tuyên ngôn, “Sắc, tức thân này, không phải là tự ngã” cũng rõ ràng ghi nhận, “Vì sắc không phải tự ngã nên sắc có chiều hướng gây đau khổ.” Do vậy ta thấy rõ ràng rằng sắc là khổ, và năm vị tỳ khưu trả lời, “Bạch Ngài, là khổ, Dukkha.”

Khi đã chỉ rõ rằng sắc là vô thường và khổ Ðức Thế Tôn tiếp tục khuyến khích năm vị tỳ khưu không nên xem thân này là “của ta”, là “chính ta”, là “tự ngã của ta”.

“Cái gì là vô thường, khổ và luôn luôn biến chuyển thì có thích nghi hay hợp lý không khi xem đó là ‘cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”

Năm vị tỳ khưu trả lời, “Bạch Ngài, không thích nghi.”

–––––––––––––––

Trong ba hình thức chấp ngã,

⒈ chấp rằng “cái này của tôi” là chấp thủ với lòng tham ái,

⒉ chấp “đây là tôi” là chấp thủ với tâm ngã mạn, và

⒊ chấp “đây là tự ngã của tôi” là chấp thủ với tà kiến.

⒈ Chấp Thủ Với Tham ái, “Ðây Là Của Tôi”

–––––––––––––––

Khi ta cảm nghe thích thú với một vật, dầu vật ấy không phải của mình, thì đó là lòng tham ái.

Như đi chợ, ta thấy một vật đẹp, phát tâm thỏa thích dường như đã làm chủ vật ấy.

Thấy một cái áo, hay một cái quần vừa ý, ta tưởng tượng như mặc nó vào mình, thấy một đôi giày giống như ý mình muốn, ta cũng tưởng tượng như mang nó vào chân.

Chúng ta ưa thích đủ chuyện nếu vừa lòng đẹp dạ dầu là vật vô tri giác hay hữu giác hữu tri trong trí tưởng tượng ta xem như đã là của mình.

Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư hỏi rằng chấp thủ sự vật vô thường, khổ, phải luôn luôn biến đổi và thỏa thích trong đó, xem đó là “của ta”, như vậy thì có sáng suốt không?

Nói cách khác, thích thú trong đau khổ thì có đúng không?

Những sắc pháp trong thân ta vừa khởi sanh đã liền tan biến, không ngừng sanh diệt. Nếu ta thấy sự vật đúng như thật sự nó là vậy thì quả thật là kinh hoàng, thật đáng sợ, giống như đang sống trong một ngôi nhà quá cũ kỷ, rách nát, không biết sụp đổ lúc nào.

Trong khoảnh khắc hiện tại có thể ta cảm nghe an toàn, nhưng bất cứ lúc nào trong tương lai, tùy thuộc nơi điều kiện và hoàn cảnh, hiểm họa có thể bất ngờ xảy đến.

Một khi nhận thức rằng thân này rất mỏng manh, không ổn định, không thể tồn tại đến một giây mà không biến đổi, và như vậy là một nguồn đau khổ, thì làm thế nào ta có thể hoan hỷ thỏa thích với nó?

Có ai vui lòng chọn một người bạn đời sắp bị tàn phế hoặc sắp chết trong vài giờ hay trong vài ngày không?

Không ai thật sự hiểu biết điều gì sắp xảy diễn mà hoan hỷ thỏa thích trong đó. Cùng thế ấy, vị hành giả đã thấy tiến trình nhanh chóng sanh diệt của ngũ uẩn chỉ thấy kinh hoàng đau khổ trong đó.

Cảm nhận như vậy người ấy sẽ không có ý muốn chấp thủ thân này là chính ta. Do đó Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời rằng xem thân này là “của ta” thì thật không thích nghi.

⒉ Chấp Thủ Với Tâm Ngã Mạn, “Ðây là Ta”

–––––––––––––––

Thấy sắc pháp và nghĩ rằng, “đây là Ta” là chấp thủ với tâm ngã mạn.

Khi có mắt sáng, tai thính, ta thấy và nghe rõ ràng và lấy làm hãnh diện, “Tôi có mắt và tai tốt, tôi xinh đẹp, tôi có giọng nói êm dịu dễ thương, tôi có sức khỏe, tôi mạnh mẽ v.v…” Chấp thủ thân này như thế ấy có thích nghi không?

Nghĩ rằng những gì của mình sẽ tồn tại lâu dài và thường còn là khái niệm lầm lạc có chiều hướng tăng trưởng tính ngã mạn.

Khi những sắc pháp của mắt, tai và hình sắc, những đối tượng của sự thấy, được hiểu biết sai lầm là thường còn thì lòng tự mãn càng tăng cao.

Cũng giống như người kia có nhiều vàng bạc và của cải được dấu kín ở một nơi: người ấy rất hãnh diện với tài sản dồi dào phong phú của mình, nhưng nếu biết rằng bao nhiêu vòng vàng đều bị trộm, bao nhiêu tiền của đều mất, thì cái bong bóng ngã mạn ấy sẽ nổ bụp, xẹp lép.

Cùng thế ấy, khi chấp thủ những sắc pháp hiển hiện trước mắt, và được nghe nói đến rõ ràng, thì người ta nghĩ rằng nó vẫn tồn tại, và rất hãnh diện với những sắc pháp ấy.

Vị hành giả chuyên cần và nhiệt thành quán niệm sẽ hiểu biết rằng những sắc pháp ấy chỉ khởi sanh để rồi tan biến trong chốc lát thì không có lý do gì để hãnh diện với ý nghĩ, “Tôi có mắt sáng”, “Tôi xinh đẹp”.

Nhóm Năm vị Tỳ Khưu được hỏi, Ṅghĩ đến thân này ‘đây là ta’ thì có thích nghi không?” Câu trả lời là, “Bạch Ngài, không”.

Bằng cách nêu lên câu hỏi để được trả lời, Ðức Thế Tôn muốn rọi sáng cho năm vị tỳ khưu thấy rõ là khi có quan niệm rằng sự vật là thường còn bất hoại thì tính ngã mạn sẽ phát khởi, nếu hiểu biết rằng vạn pháp là vô thường thì ngã mạn không khởi sanh.

⒊ Chấp Thủ Với Tà Kiến, “Ðây Là Tự Ngã Của Tôi”

–––––––––––––––

Chấp thủ niềm tin “Ðây là tự ngã của tôi” là chấp thủ với tà kiến.

Tà kiến này được chấp chứa dưỡng nuôi khi có niềm tin rằng các sắc pháp bên trong một người tồn tại lâu dài và con người có thể kiểm soát và điều khiển.

Khi có sự hiểu biết rằng những sắc pháp ấy không ổn định thường còn mà luôn luôn sanh diệt và đau khổ vì phải luôn luôn biến chuyển, không thể tồn tại, ắt không có lý do vững chắc nào để bám níu vào thân này, xem đó là “ta”, là một thực thể sống.

Khi người hành thiền hiểu biết rằng ta không thể kiểm soát thân này, không thể điều khiển, sai bảo, “Hãy làm phát sanh tất cả những gì tốt đẹp, đáng được ưa thích, hãy không để xảy ra những gì xấu xa, không đáng được ưa thích, hãy để cho những sắc pháp tốt thường còn” thì không có gì cho vị ấy bám níu, chấp thủ là “ta”.

Do đó, để trả lời câu hỏi, “Xem thân này là tự ngã thì có thích nghi không?” năm vị tỳ khưu đáp, “Bạch Ngài không.”

Với câu hỏi này Ðức Thế Tôn rọi sáng rằng khi không thông hiểu rằng sắc pháp này sanh diệt trong từng khoảnh khắc thì có chấp thủ xem đó là tự ngã của mình.

Khi đã biết trạng thái vô thường của nó thì không còn chấp ngã. Theo vậy, “trạng thái biến đổi trong từng khoảnh khắc” cũng phải được xem là một đặc tướng của lý vô ngã.

Trong phần đầu bài giảng hôm nay chúng ta đã đề cập đến những đặc tính của vô thường; phần sau giảng qua tất cả ba đặc tướng được đề cập đến trong Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhāṇa Sutta) dưới hình thức vấn đáp.

Bài giảng về sắc uẩn đã được trình bày khá đầy đủ. Tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến những câu vấn đáp liên quan đến các uẩn kia.

(Còn tiếp)

Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về kinh vô ngã tướng, Web

Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web

Bài 3 – Tà kiến về jīva attā tiểu ngã và parama attā đại ngã, Web

Bài 4 – Bốn loại luyến ái bám níu vào tự ngã, Web

Bài 5 – Thân quán niệm xứ: quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web

Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web

Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web

Bài 8 – Thọ quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web

Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web

Bài 10 – Hành quán niệm xứ: quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web

Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web

Bài 12 – Thức là vô ngã, Web

Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư phật chánh đẳng giác khi xuất hiện trên thế gian, Web

Bài 14 – Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web

Bài 15 – Thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web

Bài 16: Ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức vô thường khổ vô ngã, Web

Bài 17: Thấu hiểu lý vô ngã dựa trên đặc tướng vô thường, Web

Bài 18: Thấu hiểu lý vô ngã dựa trên đặc tướng khổ, Web

Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web

Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web

Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm hành uẩn, Web

Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm thức uẩn, Web

Bài 23: Pphương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web

Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web

Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web

Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web

Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web

Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web

Bài 29:Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web

Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web

Bài 31: Nibbinda ñāṇa – tuệ nhàm chán là gì? tu tập vun bồi như thế nào?, Web

Bài 32: Sáu ðặc ðiểm của tuệ xả hành (saṅkhārupekkha ñāṇa), Web

Bài 33: Phát triển vuṭṭhānagāminī vipassanā – tuệ minh sát vượt lên, Web

Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua thánh quả, vốn là thành quả của thánh đạo, Web

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 27/8/2025