Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15

[Diệt Đế – Đạo Đế – Lợi Ích Tu Tập Tứ Niệm Xứ] 

▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

https://www.facebook.com/share/p/1DEhthmPjC/

–––––––––––––––

Bản dịch Việt của Deapseek ngày 24.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/1Yb5tYPWDF/

–––––––––––––––

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – Phần 15/15

▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

Xin giải thích đôi chút:

Phần giải thích này nhắm đến những người chưa từng nghiên cứu các bộ luận với tên gọi như Abhidhammattha Saṅgaha.

(1) Các pháp như ‘nhãn’ (cakkhu), ‘nhĩ’ (sota), v.v… được đề cập ở điểm (1) chính là Nhãn Tịnh Sắc (cakkhu–pasāda–rūpa), v.v… ‘Sắc’ (rūpa), ‘Thinh’ (sadda), v.v… chính là Sắc Trần (rūpārammaṇa), Thinh Trần (saddārammaṇa), v.v…

(2) ‘Nhãn thức’ (cakkhu–viññāṇa) được đề cập ở điểm (2) đó chỉ cho tâm Nhãn Thức (cakkhu–viññāṇa–citta) nương tựa vào Nhãn Tịnh Sắc. Nhĩ Thức (sota–viññāṇa), v.v… cũng nên được hiểu tương tự.

(3) ‘Nhãn xúc’ (cakkhu–samphassa) được đề cập ở điểm (3) đó chỉ cho Xúc (phassa) có đặc tính là sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa Nhãn Tịnh Sắc và Sắc Trần; nó được gọi là Nhãn Xúc. Nhĩ Xúc (sota–samphassa), v.v… cũng nên được hiểu tương tự.

(4) ‘Thọ do nhãn xúc sanh’ (cakkhu–samphassajā vedanā) được đề cập ở điểm (4) đó chỉ cho Thọ (vedanā) phát sanh từ sự kết hợp của Nhãn Tịnh Sắc, Sắc Trần và Nhãn Thức; nó được gọi là Thọ do Nhãn Xúc sanh. Các loại thọ còn lại cũng nên được hiểu tương tự.

(5) ‘Sắc tưởng’ (rūpa–saññā) được đề cập ở điểm (5) đó chỉ cho Tưởng (saññā) nhận biết, ghi nhớ Sắc Trần. Các loại tưởng còn lại cũng nên được hiểu tương tự.

(6) Đối với ‘Sắc tư’ (rūpa–sañcetanā) v.v… được đề cập ở điểm (6), trước tiên cần làm rõ bản chất của Tư (cetanā).

Bản chất của Tư (cetanā) là có đặc tính khiến cho các tâm sở đồng sanh, đồng hiện hữu, tương ưng với nó – tức là các tâm sở đi cùng với tâm – luôn hướng đến (ārammaṇa) và tác ý đến (vāhana) các đối tượng và các nhiệm vụ khác nhau khi chúng phát sanh.

Nó có đặc tính thúc đẩy, khiến (chúng) thực hiện công việc đến hoàn tất. Chính Tư này, khi thực hiện chức năng quyết định (cetanā), chính là Tư (sañcetanā). Khi nó tác động lên Sắc (rūpa) – “Sắc tư” (rūpe sañcetanā) – thì nó trở thành Sắc Tư (rūpa–sañcetanā).

Điều này có nghĩa là: Trong việc hướng tâm đến Sắc Trần, hay khi thấy, nó có đặc tính khiến cho các tâm sở đồng sanh, đồng hiện hữu, tương ưng với nó luôn hướng đến và tác ý đến đối tượng.

Thinh Tư (sadda–sañcetanā), v.v… cũng nên được hiểu tương tự.

(7) ‘Sắc ái’ (rūpa–taṇhā) được đề cập ở điểm (7) đó được hình thành bằng cách kết hợp “ái đối với sắc” (rūpe taṇhā) thành “Sắc ái” (rūpa–taṇhā). Ái (taṇhā) tham đắm, ưa thích Sắc Trần được gọi là Sắc Ái.

Điều kỳ lạ là: Chính Ái (taṇhā) tham đắm, ưa thích Sắc Trần ấy, vốn là nơi sanh khởi của Khổ Tập Đế (samudaya–sacca), có bản chất đáng yêu, dễ chịu, lại chính là ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa).

Xin giải thích thêm:

Trước đây, hoặc trong quá khứ, Ái (taṇhā) đã từng tham đắm, ưa thích Sắc Trần, Thinh Trần, v.v… Về sau, khi phản tỉnh lại đối tượng ấy, chính sự hài lòng, ưa thích đối với Ái đã từng tham đắm, ưa thích đối tượng đó lại phát sinh. Khi đó, Ái đã sanh trong quá khứ trở thành ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa), và Ái sanh sau này trở thành Khổ Tập Đế (samudaya–sacca).

Ví dụ: Một người đi xem kịch vào đêm hôm trước đã thấy các diễn viên xinh đẹp, trang nhã, nghe những âm thanh êm dịu, cảm thấy vui thích, hài lòng, và thỏa mãn.

Vào buổi sáng, khi người ấy hồi tưởng lại những Sắc Trần xinh đẹp, trang nhã của các diễn viên, những Thinh Trần êm dịu, và chính Ái (taṇhā) đã tham đắm, ưa thích những đối tượng ấy, thì Ái đã sanh vào đêm hôm trước trở thành ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’. Còn Ái khởi lên khi hồi tưởng vào buổi sáng thì trở thành Khổ Tập Đế. Như vậy, Ái trước là ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’, còn Ái sanh sau là Ái của Khổ Tập Đế.

Ngay trong đời sống thế tục, cũng có trường hợp Ái (taṇhā) khởi lên nơi người khác (bāhira–santāne) lại trở thành Ái của Khổ Tập Đế (samudaya–taṇhā) nơi chính mình.

Ví dụ: Khi một người nào đó thấy một thanh niên năng nổ buôn bán, kinh doanh để kiếm tiền với tâm tham, và khen ngợi: “Cậu thanh niên này giỏi thật, có lòng tham thật. Nhờ có chút tham lam mà buôn bán, kinh doanh nên ngày càng phát đạt”. Khi đó, Ái tham (taṇhā–lobha) của người thanh niên trở thành ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’, còn Ái tham khởi lên nơi người khen ngợi (trong dòng tâm thức của họ) chính là Khổ Tập Đế.

(8–9) ‘Sắc tầm’ (rūpa–vitakka) và ‘Sắc tứ’ (rūpa–vicāra) được đề cập ở điểm (😎 và (9) chính là sự suy nghĩ, cân nhắc, tìm tòi liên quan đến Sắc Trần. Sắc Tầm, v.v… cũng nên được hiểu tương tự.

Việc giải thích về ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa) đã xong. Việc giải thích về Khổ Tập Đế (samudaya–sacca) đã xong.

–––––––––––––––

KHỔ DIỆT ĐẾ (NIRODHA–SACCA)

–––––––––––––––

Sau khi thuyết giảng về Khổ Tập Đế (samudaya–sacca), giờ đây, để thuyết giảng về Khổ Diệt Đế (nirodha–sacca), Đức Thế Tôn đã nói:

(Katamañca bhikkhave dukkha–nirodhaṃ ariyasaccaṃ?)

“Và này các Tỳ–kheo, thế nào là Khổ Diệt Thánh đế?” – Ngài đặt câu hỏi bằng cách hỏi về sự diệt khổ.

(Yo tassāyeva taṇhāya asesa–virāga–nirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo.)

“Này các Tỳ–kheo… chính là sự đoạn diệt hoàn toàn không còn dư tàn, sự ly tham, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ đối với Ái (taṇhā) đã được chỉ ra trong phần Khổ Tập Đế. Sự từ bỏ Ái, sự giải thoát khỏi Ái, sự không còn chấp thủ (ālaya) Ái trong các đối tượng dục lạc, đó gọi là Khổ Diệt Đế.”

Khi được hỏi “Khổ Diệt Đế, sự diệt tận của khổ, là gì?”, lẽ ra câu trả lời phải là “Chính là sự đoạn diệt hoàn toàn của khổ đó” (tass’eva dukkhassa asesa–virāga–nirodho), nhưng Ngài đã không trả lời như vậy mà nói:

(Tassāyeva taṇhāya…) – “Chính đối với Ái đó…”

Lý do Ngài trả lời như vậy là bởi vì khổ chỉ diệt tận khi và chỉ khi Ái – nguyên nhân chính, gốc rễ của khổ, tức Khổ Tập Đế – bị đoạn trừ hoàn toàn bởi Đạo (Magga). Và chính sự diệt tận của Ái ấy mới là Khổ Diệt Đế.

(Yathāpi mūlaṃ anuppadḍave dhaḷe, chinno’pi dukkho puna’deva rūhati. Evam’pi taṇhā–nusaye anūhate, nibbattati dukkhaṃ idaṃ punappunaṃ.)

“Cũng giống như gốc rễ của cây còn nguyên vẹn, dù bị chặt đứt, cây khổ đau ấy vẫn mọc trở lại. Cũng vậy, khi ngủ ngầm Ái (taṇhā–nusaya) chưa được nhổ bật, thì khổ đau này vẫn sinh khởi lặp đi lặp lại.”

Giống như gốc rễ là nguyên nhân chính, cốt lõi của cây, thì trong Khổ Đế, Ái (taṇhā) chính là nguyên nhân chính, cốt lõi. Người đốn cây mà không chặt đứt gốc rễ, thì cây ấy sẽ lại đâm chồi, nảy cành. Tương tự, nếu không đoạn trừ tận gốc các phiền não ngủ ngầm (anusaya–kilesa), tức là Ái, thì khổ đau này sẽ tái sinh mãi.

Do đó, Đức Thế Tôn không trả lời bằng hậu quả là sự diệt khổ, mà trả lời bằng nguyên nhân cốt lõi là sự diệt tận của Ái (Khổ Tập Đế) và gọi đó là Diệt (Nirodha).

Khi Đạo (Magga) đoạn trừ Ái (taṇhā) bằng cách lấy Niết–bàn (Nibbāna) làm đối tượng, thì chính Ái ấy đã từng phát sinh nương vào ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa). Tương tự, khi Ái ấy bị diệt tận, nó cũng diệt tận ngay tại chính ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ đó. Do vậy, Ngài dạy:

(Yaṃ loke piya–rūpaṃ sāta–rūpaṃ, etthesā taṇhā pahīyamānā pahīyati, ettha nirujjhamānā nirujjhati.)

“Ở đời, có những pháp được gọi là ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa). Khi Ái (taṇhā) bị từ bỏ, đoạn trừ, nó được từ bỏ, đoạn trừ ngay tại các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy. Khi Ái bị diệt, nó diệt ngay tại các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy.”

Nghĩa là, chúng sinh có những pháp có bản chất được gọi là ‘đáng yêu, dễ chịu’. Khi không còn tham đắm, ưa thích, không còn dính mắc vào các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy nữa, thì Ái bị diệt tận gốc rễ. Sự diệt tận, sự an tịnh của Ái ấy được gọi là Khổ Diệt Đế.

Ví dụ minh họa:

Một người nông dân thấy trên ruộng mình mọc những cây bầu đắng, bí đắng không mong muốn. Anh ta tìm gốc rễ và nhổ bật, cắt đứt chúng từ gốc. Những cây đó héo khô và tiêu tan. Lúc đó, người ta nói rằng trên ruộng đã không còn những cây bầu đắng, bí đắng nữa.

Cũng vậy, khi Ái (taṇhā) tham đắm, ưa thích nơi các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ như Nhãn Tịnh Sắc, v.v… bị Đạo (Magga) đoạn trừ, thì người ta nói rằng Ái đã bị diệt tận, không còn nơi các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy.

Một cách ví dụ khác:

Giống như sau khi bắt giết hết bọn cướp ẩn náu trong rừng, người ta nói trong rừng không còn bọn cướp nữa. Cũng vậy, khi Ái tham đắm, ưa thích nơi các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ như Nhãn Tịnh Sắc, v.v… bị Thánh Đạo (Ariya–magga) đoạn trừ, thì người ta nói rằng Ái đã bị diệt tận nơi các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy.

Tóm lại ý nghĩa:

Điều Ngài muốn chỉ dạy là: Ái (taṇhā) khi sinh khởi thì sinh khởi nơi các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ (piya–rūpa, sāta–rūpa). Khi bị Đạo đoạn trừ và diệt tận, thì nó cũng diệt tận ngay tại các ‘Sắc đáng yêu, dễ chịu’ ấy.

Việc giải thích về Khổ Diệt Đế (nirodha–sacca) đã xong.

–––––––––––––––

ĐẠO ĐẾ (MAGGA–SACCA)

–––––––––––––––

Sau khi thuyết giảng về Khổ Diệt Đế (nirodha–sacca), giờ đây, để thuyết giảng về Đạo Đế (magga–sacca), Đức Thế Tôn đã nói: (Katamañca bhikkhave dukkha–nirodha–gāminī paṭipadā ariyasaccaṃ?)

“Và này các Tỳ–kheo, thế nào là Khổ Diệt Đạo Thánh đế – Con đường đưa đến sự diệt khổ?”

(Ayam’eva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.)

“Chính con đường Thánh đạo tám ngành (Ariya Aṭṭhaṅgika Magga) này.”

(Seyyathidaṃ:) “Cụ thể là tám chi phần,đó là:

1. Chánh Kiến (Sammā–diṭṭhi)

2. Chánh Tư Duy (Sammā–saṅkappa)

3. Chánh Ngữ (Sammā–vācā)

4. Chánh Nghiệp (Sammā–kammanta)

5. Chánh Mạng (Sammā–ājīva)

6. Chánh Tinh Tấn (Sammā–vāyāma)

7. Chánh Niệm (Sammā–sati)

8. Chánh Định (Sammā–samādhi)

Những pháp này được gọi là Bát Thánh Đạo, con đường đưa đến Niết–bàn.”

1. Thế nào là Chánh Kiến?

(Katamo ca bhikkhave sammā–diṭṭhi?)

“Đó là trí tuệ thấy rõ Khổ (dukkhe ñāṇaṃ),

trí tuệ thấy rõ Nguyên nhân của Khổ (dukkha–samudaye ñāṇaṃ),

trí tuệ thấy rõ Sự Diệt Khổ (dukkha–nirodhe ñāṇaṃ),

trí tuệ thấy rõ Con đường đưa đến sự Diệt Khổ (dukkha–nirodha–gāminiyā paṭipadāya ñāṇaṃ).

Trí tuệ này gọi là Chánh Kiến.”

2. Thế nào là Chánh Tư Duy?

(Katamo ca bhikkhave sammā–saṅkappo?)

“Đó là tư duy hướng đến sự xuất ly(nekkhamma–saṅkappa), tư duy hướng đến không sân hận (abyāpāda–saṅkappa), tư duy hướng đến không hại (avihiṃsā–saṅkappa). Đây gọi là Chánh Tư Duy.”

3. Thế nào là Chánh Ngữ?

(Katamā ca bhikkhave sammā–vācā?)

“Đó là từ bỏ nói láo (musāvādā veramaṇī),

từ bỏ nói lời chia rẽ (pisuṇāya vācāya veramaṇī),

từ bỏ nói lời thô ác (pharusāya vācāya veramaṇī),

từ bỏ nói lời phù phiếm (samphappalāpā veramaṇī).

Đây gọi là Chánh Ngữ.”

4. Thế nào là Chánh Nghiệp?

(Katamo ca bhikkhave sammā–kammanto?)

“Đó là từ bỏ sát sanh(pāṇātipātā veramaṇī),

từ bỏ trộm cắp (adinnādānā veramaṇī),

từ bỏ tà hạnh trong các dục (kāmesu micchācārā veramaṇī).

Đây gọi là Chánh Nghiệp.”

5. Thế nào là Chánh Mạng?

(Katamo ca bhikkhave sammā–ājīvo?)

“Đó là từ bỏ tà mạng,sống với chánh mạng. Đây gọi là Chánh Mạng.”

6. Thế nào là Chánh Tinh Tấn?

(Katamo ca bhikkhave sammā–vāyāmo?)

· “Nỗ lực, tinh cần, quyết tâm, cố gắng để ngăn ngừa các bất thiện pháp chưa sanh không cho sanh khởi.

· Nỗ lực để đoạn trừ các bất thiện pháp đã sanh.

· Nỗ lực để làm sanh khởi các thiện pháp chưa sanh.

· Nỗ lực để duy trì, không để quên mất, làm tăng trưởng, phát triển, viên mãn các thiện pháp đã sanh.

Đây gọi là Chánh Tinh Tấn.”

7. Thế nào là Chánh Niệm?

(Katamā ca bhikkhave sammā–sati?)

“Này các Tỳ–kheo,ở đây, vị Tỳ–kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời… sống quán thọ trên các cảm thọ… sống quán tâm trên tâm… sống quán pháp trên các pháp… Đây gọi là Chánh Niệm.”

8. Thế nào là Chánh Định?

(Katamo ca bhikkhave sammā–samādhi?)

“Này các Tỳ–kheo,ở đây, vị Tỳ–kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất… Thiền thứ hai… Thiền thứ ba… Thiền thứ tư… Sự định tâm của vị Tỳ–kheo ấy, với tâm an trú vào một đối tượng duy nhất, gọi là Chánh Định.”

“Này các Tỳ–kheo, đây gọi là Khổ Diệt Đạo Thánh đế – Con đường đưa đến sự diệt khổ.”

Ý nghĩa của Bát Thánh Đạo đã được Đức Thế Tôn giải thích rõ ràng trong Kinh điển, nên chúng tôi chỉ trình bày theo đúng lời Kinh.

Trong Bát Thánh Đạo:

–––––––––––––––

· Chánh Kiến có đặc tính thấy đúng.

· Chánh Tư Duy có đặc tính hướng tâm đúng đắn.

· Chánh Ngữ có đặc tính thu thúc lời nói.

· Chánh Nghiệp có đặc tính thúc đẩy hành động đúng.

· Chánh Mạng có đặc tính thanh tịnh hóa.

· Chánh Tinh Tấn có đặc tính nỗ lực, cổ vũ.

· Chánh Niệm có đặc tính ghi nhớ rõ ràng.

· Chánh Định có đặc tính an trú vững chắc.

Mỗi chi phần có ba chức năng:

–––––––––––––––

1. Chánh Kiến:

(a) Đoạn trừ Tà Kiến.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Đoạn trừ si mê, giúp các pháp tương ưng thấy rõ.

2. Chánh Tư Duy:

(a) Đoạn trừ Tà Tư Duy.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Hướng các pháp tương ưng đến đối tượng.

3. Chánh Ngữ:

(a) Đoạn trừ Tà Ngữ.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Nhiếp phục các pháp tương ưng.

4. Chánh Nghiệp:

(a) Đoạn trừ Tà Nghiệp.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Thúc đẩy các pháp tương ưng hành động.

5. Chánh Mạng:

(a) Đoạn trừ Tà Mạng.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Thanh tịnh hóa các pháp tương ưng.

6. Chánh Tinh Tấn:

(a) Đoạn trừ Tà Tinh Tấn.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Cổ vũ, khích lệ các pháp tương ưng.

7. Chánh Niệm:

(a) Đoạn trừ Tà Niệm.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Giúp các pháp tương ưng ghi nhớ rõ ràng.

8. Chánh Định:

(a) Đoạn trừ Tà Định.

(b) Lấy Niết–bàn làm đối tượng.

(c) Giúp các pháp tương ưng an trú vững chắc.

Trình tự thuyết giảng:

–––––––––––––––

1. Chánh Kiến được dạy đầu tiên vì nó là ánh sáng, là thanh gươm trí tuệ, đoạn trừ vô minh và phiền não.

2. Chánh Tư Duy được dạy kế tiếp vì nó giúp lựa chọn và suy xét đúng đắn dựa trên Chánh Kiến.

3. Chánh Ngữ được dạy thứ ba, vì sau khi suy nghĩ cần diễn đạt bằng lời nói.

4. Chánh Nghiệp được dạy thứ tư, vì sau khi nói năng cần đến hành động.

5. Chánh Mạng được dạy thứ năm, vì sau khi giữ gìn khẩu nghiệp và thân nghiệp thì cần giữ gìn sinh mạng trong sạch.

6. Chánh Tinh Tấn được dạy thứ sáu, vì sau khi có giới hạnh thanh tịnh, cần tinh tấn tu tập.

7. Chánh Niệm được dạy thứ bảy, vì khi có tinh tấn, cần chánh niệm để ghi nhận rõ ràng.

8. Chánh Định được dạy thứ tám, vì sau khi có chánh niệm, cần định tâm để an trú.

Kết thúc Đạo Đế:

–––––––––––––––

Đức Thế Tôn dạy rằng cần quán chiếu Tứ Diệu Đế ngay trong tự thân,đôi khi quán chiếu nơi người khác, quán chiếu sự sinh và diệt của chúng, với chánh niệm tỉnh giác, thấy rằng chỉ có các pháp trong thân này.

Sự quán chiếu này làm tăng trưởng Tuệ Quán (Vipassanā–ñāṇa) và Chánh Niệm. Tâm của hành giả sẽ không còn nương tựa vào Ái và Tà Kiến, không còn chấp thủ Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là ‘Ta’ hay ‘Của Ta’.

Như vậy, Ngài kết thúc việc thuyết giảng Đạo Đế bằng lời dạy: “Cần quán chiếu Tứ Diệu Đế như vậy.”

Việc giải thích về Đạo Đế (magga–sacca) đã xong.

–––––––––––––––

LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP TỨ NIỆM XỨ

–––––––––––––––

Đức Phật dạy rằng nếu một người tu tập kiên trì một trong bốn Niệm Xứ này trong bảy năm, hoặc thậm chí bảy ngày, tùy theo căn cơ và sự tinh tấn, có thể chứng đắc quả A–la–hán (Arahant) hoặc ít nhất là quả Bất Lai (Anāgāmī).

Lời kết của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta):

“Này các Tỳ–kheo,đây là con đường duy nhất để thanh tịnh chúng sinh, vượt qua sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh Đạo, chứng ngộ Niết–bàn. Đó chính là Tứ Niệm Xứ.”

––

Thời gian hoàn thành bản thảo: Ngày 3 tháng Kason(giảm), năm 1346 (theo lịch Myanmar), ngày Thứ Năm, 10 giờ sáng. Hoàn thành khi (tác giả) thọ 90 tuổi 6 tháng.

LỜI KẾT

–––––––––––––––

1. Dhammānupassanā sati, paṭṭhānaṃ pañca–pabbakaṃ. Dukkhakkhayassa sumaggaṃ, yathābalaṃ suvaṇṇitaṃ.

“Con đường dẫn đến sự đoạn tận khổ đau, là pháp Tứ Niệm Xứ với năm chương, đã được con (tác giả) dốc sức biên soạn.”

2. Anena dhamma–dānena, taṇhāya ca dukkhassa ca. Nirodhaṃ sīghaṃ pappomi, susukhaṃ Buddhatthomitaṃ.

“Do phước báu của việc biên soạn pháp thí này, nguyện con mau chóng đạt được Niết–bàn an lạc mà Đức Phật tán thán.”

3. Imassa puñña–kammassa, ānubhāvena sādhava. Sukhitā muditā hontu, jānantu dhammam–uttamaṃ. “Do oai lực của thiện nghiệp này, mong tất cả chúng sinh được an vui, hoan hỷ, và thân chứng Giáo Pháp tối thượng.”

Tác giả: Đại Trưởng Lão Paṇḍita, tự Viên Nguyệt (Shwe Hintha Sayadaw). Tu viện Shwe Hintha mới, dãy núi Sagaing. Ngày 10 tháng Kason (trăng tròn), năm 1346, ngày Thứ Năm.

 

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web

–––––––––––––––

Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/1Yb5tYPWDF/

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 24/9/2025