Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15
[Phương Pháp Đoạn Trừ Sân Hận Triền Cái (Byāpāda Nīvaraṇa)]
#ShweHintharSayadaw
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
https://www.facebook.com/share/p/1F35HyTqxo/
#pqtnx #myanmarsayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Deapseek ngày 24.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/16aajVirLr/
–––––––––––––––
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ Phần 6/15 ▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
◾ Phương Pháp Đoạn Trừ Sân Hận Triền Cái (Byāpāda Nīvaraṇa)
Sau khi đã chỉ dạy những điều cần biết và cần chánh niệm liên quan đến Dục Tham Triền Cái (Kāmachanda Nīvaraṇa), đức Thế Tôn muốn thuyết giảng và chỉ dạy những điều cần biết, cần chánh niệm liên quan đến Sân Hận Triền Cái (Byāpāda Nīvaraṇa) – Ngài dạy rằng:
Santaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ, atthi me ajjhattaṃ byāpādoti pajānāti…
(Vị ấy tuệ tri: “Nội tâm ta có sân hận”; hoặc tuệ tri: “Nội tâm ta không có sân hận”).
Hành giả, hoặc một người có chánh niệm, nếu tại thời điểm này, sân hận (byāpāda) khởi lên trong nội tâm của mình, hãy chánh niệm và tuệ tri rằng: “Sân hận đang khởi lên trong tâm ta”.
Nếu sân hận không có mặt, cũng hãy dùng trí tuệ quán chiếu và tuệ tri rằng: “Hiện tại nội tâm ta không có sân hận”.
Nếu sân hận chưa sanh được khởi lên, vị ấy cũng tuệ tri sân hận vừa khởi sanh ấy. Sân hận đã sanh khởi cần được từ bỏ bằng pháp quán tưởng thích hợp. Vị ấy cũng tuệ tri khi sân hận đã được đoạn trừ, diệt mất.
Dù được tạm thời đoạn trừ theo từng sát–na (tadaṅga) hay nhờ sự chế ngự (vikkhambhana), vị ấy cũng tuệ tri rằng về sau, với sự chứng đắc A–na–hàm đạo (Anāgāmimagga), sân hận sẽ bị đoạn trừ vĩnh viễn và không còn tái sanh nữa.
Đối với Sân Hận Triền Cái, bản chất của sân hận (byāpāda) chính là tâm sở Sân (Dosa cetasika). Đối tượng là nguyên nhân khởi lên của sân hận. Nếu tác ý (manasikāra) không thích đáng đối với bất kỳ đối tượng nào, sân hận sẽ khởi lên. Khi tác ý không thích hợp, không đúng đắn (ayoniso manasikāra) đối với đối tượng dễ gây sân hận trở nên thường xuyên, thì sân hận dễ dàng phát sinh.
Do đó, đức Thế Tôn dạy:
Ayoniso manasikaroto anuppannā ceva akusalā dhammā uppajjanti, uppannā ca akusalā dhammā abhivaḍḍhanti.
(Do tác ý không khéo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi; các pháp bất thiện đã sanh được tăng trưởng).
Tác ý không khéo chính là dưỡng chất (āhāra) cho sự sanh khởi của các bất thiện pháp như sân hận.
Trong tâm của người đang sân hận, các tâm bất thiện cùng với tâm sở Sân khởi lên. Mặc dù bản thân sân hận không chủ đích ngăn che các thiện pháp, nhưng trong khoảng thời gian sân hận liên tục khởi lên, các tâm thiện không có cơ hội phát sinh.
Do đó, sân hận trở thành thứ ngăn che, chướng ngại (nīvaraṇa) các thiện pháp, và đức Thế Tôn đặt tên cho nó là Sân Hận Triền Cái (Byāpāda Nīvaraṇa).
Bản chất của sân hận là ngăn cản, bít lấp các thiện pháp, nên nó được gọi là Byāpāda Nīvaraṇa. Dưỡng chất để đoạn trừ sân hận chính là tác ý khéo léo (yoniso manasikāra) và sự kham nhẫn (khanti).
Câu chuyện về vua Trời Sakka (Đế Thích) dùng tác ý khéo và nhẫn nhục để dập tắt sân hận chưa sanh:
Một thời, chư Thiên cõi Trời Ba Mươi Ba (Tāvatiṃsa) và chư A–tu–la (Asura) giao chiến. Chư Thiên chiến thắng và bắt được A–tu–la vương Vepacitti, trói bằng năm sợi dây và giam giữ.
A–tu–la vương Vepacitti vô cùng phẫn nộ, mỗi khi thấy vua Trời Sakka liền mắng nhiếc: “Đồ Sakka hèn hạ! Đồ Sakka già!” Vua Trời Sakka, với tác ý khéo léo, nhẫn nhục, giả vờ như không nghe, không thấy, không nói lại lời nào, vẫn đi lại và cư xử như thường.
Thấy vậy, người đánh xe Mātali (Mã Đồ Lợi) không chịu nổi, liền hỏi vua Trời Sakka:
“Tâu Đại vương, Ngài có nghe thấy A–tu–la Vepacitti mắng chửi không?”
Sakka đáp:
“Này Mātali, ta có nghe.”
Mātali hỏi:
“Vậy tại sao Ngài không nói lại? Phải chăng vì sợ hãi, yếu đuối, không có sức lực?”
Vua Trời Sakka trả lời:
“Này Mātali, chúng ta là kẻ chiến thắng. Vepacitti đang nằm trong tay chúng ta. Mọi hành động của chúng ta, Vepacitti sẽ là kẻ chịu hậu quả. Này Mātali, ta không sợ, cũng không yếu đuối. Nhẫn nhục khi bản thân đang thắng thế, đang ở thế mạnh, mới là nhẫn nhục đáng được bậc Thánh khen ngợi. Còn kẻ thua cuộc, yếu thế thì luôn phải nhẫn nhục.”
Nhờ vua Trời Sakka dùng tác ý khéo léo để quán chiếu và nhẫn nhục, sân hận (byāpāda nīvaraṇa) đã không khởi lên trong tâm Ngài.
Lúc đó, nếu Ngài muốn tán thán, có thể nói: Asantaṃ ajjhattaṃ byāpāda nīvaraṇaṃ, natthi me ajjhattaṃ byāpāda nīvaraṇanti pajānāti.
(Tuệ tri: “Nội tâm ta không có sân hận triền cái”).
Nếu vua Trời Sakka không dùng tác ý khéo và nhẫn nhục, mà đáp trả lại A–tu–la Vepacitti, thì không những sân hận sẽ khởi lên trong tâm Ngài, mà Ngài cũng sẽ trở thành một vị Trời hung ác, dữ tợn như Vepacitti.
Nhờ nhẫn nhục, Ngài đã giữ được địa vị một vị Thiên chủ Thánh thiện.
Sáu nguyên nhân (aṅga) đoạn trừ Sân Hận:
1. Học tập phương pháp khởi tâm Từ (Mettā).
2. Tu tập Từ tâm quán (Mettābhāvanā).
3. Quán chiếu rằng Nghiệp (Kamma) là tài sản thật sự của mình.
4. Thấy rõ lỗi lầm của Sân và lợi ích của Từ.
5. Có bạn lành (Kalyāṇamitta).
6. Nói những lời liên hệ đến Từ, hoặc lời thích hợp về sự vắng mặt của sân hận.
Sáu nguyên nhân này dẫn đến sự đoạn trừ sân hận.
Giải thích:
1. Học tập phương pháp khởi tâm Từ:
–––––––––––––––
Là nỗ lực tìm hiểu trước những lợi ích của Từ, như sức khỏe, an lạc, v.v…, đối với chúng sanh mà mình tu tập Từ tâm.
2. Tu tập Từ tâm quán:
–––––––––––––––
Từ tâm quán có hai loại:
Odhisamettābhāvanā (Từ quán có giới hạn) và
Anodhisamettābhāvanā (Từ quán vô lượng).
· Odhisamettābhāvanā: Tu tập Từ tâm bằng cách xác định đối tượng là chúng sanh hoặc phương hướng nhất định.
· Anodhisamettābhāvanā: Tu tập Từ tâm không xác định đối tượng cụ thể, hướng đến tất cả chúng sanh khắp mọi nơi. Tùy theo nhân duyên và hoàn cảnh, tu tập một trong hai loại này đều là nguyên nhân đoạn trừ Sân Hận Triền Cái.
Câu chuyện về Từ tâm của nữ cư sĩ Uttara:
–––––––––––––––
Nữ cư sĩ Uttara, vợ một trưởng giả, muốn cúng dường trai tăng và nghe Pháp đến đức Phật và Tăng chúng. Bà thuê một kỹ nữ tên Sirimā với một số tiền, nhờ cô chăm sóc người con trai của gia đình trong 15 ngày (nửa tháng), để bà có thể toàn tâm lo việc công đức.
Nữ cư sĩ Uttara vui mừng cùng tùy tùng thỉnh mời đức Phật và Tăng chúng thọ trai và thuyết Pháp trong suốt 15 ngày, cho đến ngày Tự Tứ (Pavāraṇā). Đến ngày hôm sau là ngày Tự Tứ, mọi người càng gắng sức chuẩn bị, nhà bếp khói lửa nghi ngút, mồ hôi, tro than bám đầy.
Lúc đó, Sirimā, do lầm tưởng mình là bà chủ nhà, nổi sân hận (byāpāda) với nữ cư sĩ Uttara, liền đi xuống bếp, cầm nồi dầu sôi định tạt lên người bà Uttara.
Cách tu tập Từ tâm của nữ cư sĩ Uttara: Bà nghĩ: “Ôi, bạn Sirimā thật có ân với ta. Dù trái đất có nhỏ lại, ân của bạn vẫn rộng lớn. Dù cõi Phạm Thiên có thấp xuống, ân của bạn vẫn cao vời. Nhờ ân của Sirimā, ta mới được bố thí cúng dường, được nghe Chánh Pháp. Nếu trong lòng ta có chút sân hận nào với Sirimā, xin cho dầu sôi này thiêu đốt ta. Nếu ta không hề có sân hận, xin cho nó mát lạnh như nước.” Rồi bà hướng tâm Từ (Mettābhāvanā) đến Sirimā và rải lòng Từ. Ngay lập tức, dầu sôi trở nên mát lạnh như nước.
Nhờ vậy, Từ tâm của nữ cư sĩ Uttara đã ngăn không cho sân hận khởi lên trong tâm bà, và đồng thời dập tắt sân hận đang có trong lòng Sirimā.
Từ tâm quán có khả năng làm lắng dịu sân hận. Sân (dosa), hận (byāpāda), giận (kódha) thực chất đều là Sân Hận Triền Cái, chỉ khác tên gọi, bản chất thì giống nhau. Do đó, Từ tâm quán là nguyên nhân đoạn trừ sân hận.
Từ tâm của nữ cư sĩ Uttara là Odhisamettā (có giới hạn đối tượng).
Trái lại, khi quán: “Sabbe sattā averā hontu…” (Mong tất cả chúng sanh được an lành…) không phân biệt chúng sanh hay phương hướng, thì đó là Anodhisamettā (Từ vô lượng).
Đức Phật cũng dạy 11 lợi ích của Từ tâm quán. Để giúp dễ nhớ, có bài kệ:
Lợi ích của Từ tâm (11 điều):
1. Ngủ an lạc, thức dậy an lạc.
2. Không thấy ác mộng, thường thấy mộng lành.
3. Được chư Thiên hộ trì.
4. Được người đời thương mến.
5. Được chư Thiên thương mến.
6. Tránh được các tai họa: vũ khí, thuốc độc, lửa.
7. Dễ đắc định.
8. Sắc mặt tươi sáng.
9. Khi chết, tâm không tán loạn.
10. Nếu chết khi đang an trú trong Từ tâm, sẽ được sanh lên cõi Phạm Thiên.
11. Được 11 lợi ích ngay trong hiện tại và đời sau.
Bài kệ tiếng Việt tóm tắt:
Ngủ an, thức an lạc, Ác mộng chẳng mơ màng. Chư Thiên luôn hộ trì, Như con lành cha mẹ. Người, Trời đều thương mến. Đao, độc, hỏa tránh xa, Mặt tươi, tâm định tĩnh. Chết đến, tâm không loạn, Sanh lên cõi Phạm Thiên. Đời nay mười lợi ích, Đời sau quả chẳng sai. Mười một điều lợi ấy, Do năng lực Từ tâm.
3. Quán chiếu Nghiệp là tài sản thật sự:
–––––––––––––––
Như trong kinh Abhiṇha Sutta, đức Phật dạy:
Kammassakomhi, kammadāyādo, kammayoni, kammabandhu, kammapaṭisaraṇo…
(Ta là chủ của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa…).
Nếu mọi người quán chiếu, sẽ thấy tài sản thật sự của mình chính là nghiệp thiện hay ác do mình tạo.
Mình là người thừa kế nghiệp của chính mình. Nghiệp là chỗ nương tựa.
Nếu làm việc lành, nói lời lành, nghĩ điều lành, sẽ được quả lành. Nếu làm ác, nói ác, nghĩ ác, sẽ chịu quả ác.
Quán chiếu như vậy, sân hận khởi lên do bất kỳ đối tượng hay người nào cũng sẽ lắng dịu. Do đó, quán chiếu nghiệp là tài sản thật sự cũng là nguyên nhân đoạn trừ Sân Hận Triền Cái.
4. Thấy rõ lỗi lầm của Sân và lợi ích của Từ:
–––––––––––––––
Người không chánh niệm, không quán chiếu các nghiệp thiện ác, sẽ không thấy rõ lợi ích của việc thiện và tội lỗi của sân hận. Nếu thấy rõ ràng lợi ích của việc thiện, người ta sẽ cố gắng làm điều thiện. Nếu thấy rõ ràng tội lỗi của việc ác, người ta sẽ tránh xa điều ác.
Qua câu chuyện nữ cư sĩ Uttara, ta thấy rõ lợi ích của Từ tâm và tội lỗi của sân hận, từ đó có thể đoạn trừ sân hận.
5. Có bạn lành (Kalyāṇamitta):
–––––––––––––––
Là có những người bạn thường nói đến sự nguy hại của sân hận và sự lợi ích của việc đoạn trừ nó.
Nếu trong tâm khởi lên sân hận, được bạn lành nhắc nhở, chỉ bảo về tội lỗi của sân hận, thì sân hận đang có thể được lắng dịu, đoạn trừ. Do đó, cần có bạn lành.
6. Nói lời liên hệ đến Từ:
–––––––––––––––
Không chỉ dựa vào các nguyên nhân trên, bản thân mình cũng phải thường xuyên nói về lợi ích của Từ tâm, tội lỗi của sân hận, và những lời thích hợp về sự vắng mặt của sân hận. Nói những lời như vậy thường xuyên sẽ giúp nội tâm đoạn trừ sân hận.
Sân Hận Triền Cái không chỉ ngăn che các thiện pháp, người có tánh sân thường thiếu bạn tốt. Bạn bè thân thiết cũng dễ tan vỡ. Người có tánh sân thường nói lời thô ác, khó gần, ít người thân thiết. Họ thường chỉ thấy lỗi người khác, nên tự làm khổ tâm mình.
Do đó, đức Phật dạy: “Chớ theo sự chi phối của phẫn nộ”.
Kodho vo vasamāyatu, mā ca mittēhi vo jarā. Agaṇhiyaṃ mā gaṇhittha, mā ca bhāsittha pēsuṇaṃ.
(Chớ để sân hận chi phối các người. Chớ để các người xa lìa bạn hữu. Chớ chấp thủ điều không đáng chấp thủ. Chớ nói lời đâm thọc).
Do đó, đức Phật dạy chớ theo sân hận, chớ để sân hận khởi lên, chớ làm hại tình bạn, chớ chỉ trích, chớ nói lời đâm thọc – đó là con đường đoạn trừ Sân Hận Triền Cái.
Hãy dùng các phương pháp đã trình bày để đoạn trừ Sân Hận Triền Cái – thứ ngăn che các thiện pháp.
Phần Đoạn Trừ Sân Hận Triền Cái kết thúc.
.
Hòa thượng Shwe Hinthar (Shwe Hinthar Sayadaw)
Giáo Pháp của Đức Phật (Mahā Buddha Sāsana)
––
Sadhu! Sadhu! Sadhu!
–––––––––––––––
Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/16aajVirLr/
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
