Điều Vô Cùng Quan Trọng Lúc Lâm Chung: Hối Hận, Lo Lắng – Kukkucca

Bài Pháp Vô Cùng Tốt Đẹp

Điều Vô Cùng Quan Trọng Lúc Lâm Chung: Hối Hận, Lo Lắng – Kukkucca

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

https://www.facebook.com/share/p/1BNhyEt2bq/

#mahasivietbook #myanmarsayadaw #MahasiSayadaw

–––––––––––––––

Bản dịch Việt của Gemini pro 2.5, ngày 23.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/18ZZmxsCp4/

–––––––––––––––

Bài Pháp Vô Cùng Tốt Đẹp

Điều Vô Cùng Quan Trọng Lúc Lâm Chung: Hối Hận, Lo Lắng – Kukkucca

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

Điều quan trọng là, so với những lúc khác, (sự hối hận, lo lắng) lại càng quan trọng hơn vào lúc lâm chung.

Trong sự hối hận, lo lắng (kukkucca) này, điều đặc biệt quan trọng là người ta thường day dứt rằng: “Ta vẫn chưa thực hành giới (sīla) một cách trọn vẹn”.

Cũng có thể day dứt rằng: “Ta vẫn chưa thực hành các công phu thiền định (samādhi)”.

Cũng có thể day dứt rằng: “Ta vẫn chưa thực hành các công phu tuệ (paññā)”.

Cũng có thể day dứt rằng: “Ta vẫn chưa chứng đắc, chưa đạt đến, chưa viên mãn các pháp Thánh Đạo và Quả (Ariya–magga–phala)”.

Cũng có thể day dứt rằng: “Ta vẫn chưa có được nơi nương tựa, chốn tựa nương vững chắc trong vòng luân hồi sinh tử (saṃsāra)”.

Những sự day dứt, lo lắng này rất quan trọng. Chẳng phải chúng ta đang thực hành chính là để những sự lo lắng này không khởi sanh hay sao?

Những vị đang nỗ lực hành thiền hiện nay chính là đang nỗ lực để dập tắt những sự lo lắng này. Nếu bản thân đã nỗ lực hành thiền một cách trọn vẹn, thì còn có gì để phải lo lắng nữa? Chỉ có sự an tâm, thanh thản và niềm hoan hỷ mà thôi.

Điều quan trọng là, so với những lúc khác, nó lại càng quan trọng hơn vào lúc lâm chung. Khi gần kề cái chết, người ta sẽ suy ngẫm lại.

Như thế nào?

Khi nhìn lại và tự hỏi: “Ta đã có được nơi nương tựa, chốn tựa nương cho cuộc đời mình một cách trọn vẹn chưa?”, nếu thấy vẫn chưa trọn vẹn thì sự lo lắng sẽ khởi sanh.

Chính vì để không phải lo lắng như vậy, mà chúng ta phải nỗ lực từ sớm.

Câu chuyện về vị Tỷ–kheo trẻ bị bệnh (Gilāna)

…………………………

Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị Tỷ–kheo bị bệnh (gilāna). Không chỉ có một vị Tỷ–kheo như vậy đâu, mà có rất nhiều. Tuy nhiên, để cho dễ nhớ, tôi chỉ kể về một vị.

Vị Tỷ–kheo này, do lâm bệnh, đã nhờ người đến bạch với Đức Phật.

“Bạch Đức Thế Tôn, có một vị Tỷ–kheo trẻ đang lâm trọng bệnh, bạch Thế Tôn. Vị ấy là một người vô danh, không được nhiều người biết đến. Xin Thế Tôn từ bi quang lâm đến nơi vị ấy và ban cho một thời pháp.”

Theo lời thỉnh cầu, một vị Tỷ–kheo đã đến và trình bạch. Khi nghe tin có một Tỷ–kheo trẻ đang lâm bệnh, Đức Phật, một là vì lòng bi mẫn, hai là vì nghĩ rằng đây là một vị vô danh (aññatara) nên có lẽ không có người chăm sóc, Ngài đã khởi tâm nâng đỡ.

Vì hai lý do này, Đức Phật quyết định sẽ nâng đỡ và đã tự mình ngự đến. Khi đến nơi, Ngài hỏi:

“Này con, bệnh tình của con thế nào? Nay Như Lai đã đến đây, bệnh có thuyên giảm hay khá hơn không? Tình hình ra sao rồi?”

Lúc này, vị Tỷ–kheo trẻ, khi được chính Đức Phật mà mình hằng nương tựa đích thân quang lâm và hỏi han như vậy, hẳn đã cảm thấy được tiếp thêm sức mạnh. Tuy nhiên, bệnh tình của vị ấy không thuyên giảm. Do đó, vị ấy đã bạch với Đức Phật:

“Bạch Đức Thế Tôn, bệnh của đệ tử không thuyên giảm mà ngày càng trầm trọng hơn ạ.”

Dù đã biết bệnh tình đang trở nặng, nhưng khi bắt đầu hỏi thăm một người bệnh, người ta thường hỏi như vậy. Tuy nhiên, mục đích chính của Đức Phật là để thuyết pháp. Vì vậy, Đức Phật tiếp tục hỏi:

“Này con, trong tâm con có sự lo lắng, day dứt (kukkucca) nào không?”

Vị ấy bạch rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn, trong con có rất nhiều sự lo lắng, day dứt ạ.”

Giới của Tỷ–kheo

…………….

Anappakaṃ kukkuccaṃ anappako vippaṭisāro = Khi vị Tỷ–kheo bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con có rất nhiều sự lo lắng, day dứt trong tâm”,

Đức Phật hỏi:

“Này con, con có phải lo lắng về giới (sīla) của mình không?”

Vị ấy bạch:

“Bạch Thế Tôn, về giới thì con không có gì phải lo lắng ạ.”

Đối với các vị Tỷ–kheo, điều quan trọng là sự lo lắng liên quan đến giới thường khởi sanh: “Giới của ta không trong sạch. Ta đã phạm phải tội này, tội kia…”. Đối với một vị Tỷ–kheo, đây là điều hệ trọng.

Giới của người tại gia

………..

Đối với người tại gia thì lại dễ dàng. Nếu một người tại gia phạm năm giới, chỉ cần thọ trì lại năm giới là trở nên trong sạch. Do đó, đối với người tại gia, không có gì khó khăn cả.

Đối với Tỷ–kheo thì có phần khó khăn hơn. Một số tội (āpatti) không phải chỉ cần sám hối (desanā) là xong. Phải từ bỏ vật dụng, phải thực hành các pháp hành phạt (parivāsa, mānatta), rất là nghiêm ngặt.

Do đó, sự lo lắng liên quan đến giới thường khởi sanh.

Chính vì vậy, khi Đức Phật hỏi: “Con có lo lắng gì liên quan đến giới không?”, vị Tỷ–kheo trẻ đã trả lời rằng mình không có gì phải lo lắng về giới.

Pháp hành không chỉ để cho giới được trong sạch

……………………………

Lúc này, Đức Phật lại hỏi tiếp: “Nếu giới của con đã trong sạch, vậy con còn có gì phải lo lắng nữa?” Ngài hỏi như vậy là để làm bộc lộ ra nỗi lo của vị ấy.

Vị Tỷ–kheo trẻ bèn bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, theo sự hiểu biết của đệ tử, giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng trong giáo pháp của Ngài không phải là pháp hành chỉ để cho giới được trong sạch.”

Vị ấy trình bạch: “Đệ tử hiểu rằng, giáo pháp của Đức Phật không phải chỉ thực hành để cho giới được trong sạch mà thôi.”

Vì mục đích Niết–bàn

……………..

“Này con, nếu không phải chỉ để cho giới được trong sạch, vậy con hiểu rằng nó là vì mục đích gì?”

Khi được hỏi vậy, vị ấy bạch:

“Rāgavirāgatthaṃ = Vì mục đích ly tham, vì mục đích đạt đến Niết–bàn, nơi vắng lặng tham ái.”

“Anupādāparinibbānatthaṃ = Vì mục đích dập tắt mọi khổ đau, không còn chấp thủ mà thực hành, như lời Đức Thế Tôn đã thuyết giảng. Đệ tử hiểu như vậy.”

“Theo như con đã hiểu, con đang nỗ lực để dứt trừ lòng tham ái (rāga), để đạt đến Niết–bàn, nơi vắng lặng tham ái, để sau khi tất cả các phiền não chấp thủ được dập tắt hoàn toàn, con sẽ đạt đến Niết–bàn, nơi mọi khổ đau đều được chấm dứt.”

“Tuy nhiên, đệ tử vẫn chưa đạt đến Niết–bàn đó. Vì vậy, bạch Thế Tôn, trong con khởi lên rất nhiều sự lo lắng, day dứt.”

Lúc lâm chung, có được nơi nương tựa là điều quan trọng

…………………………………….

Đúng vậy. Lời trình bạch của vị Tỷ–kheo trẻ rất hợp với thực tế. Do đó, khi sắp mạng chung, khi cái chết đến gần, khi sự việc trọng đại xảy ra, có được một nơi nương tựa là điều vô cùng quan trọng.

So với những điều quan trọng khác, việc có được nơi nương tựa này lại càng quan trọng hơn vào lúc lâm chung. Nếu chưa có nơi nương tựa, những nỗi lo lắng, day dứt trong tâm sẽ khởi sanh.

Đối với một người chỉ hướng tâm đến cõi trời, nghĩ rằng: “Giới của ta đã trong sạch, sau khi chết ở kiếp này, ta sẽ được sanh về cõi trời ở kiếp sau”, thì nếu giới trong sạch, sẽ không có gì phải lo lắng. Họ sẽ an tâm rằng kiếp sau mình sẽ được sung sướng.

Nhưng vị Tỷ–kheo trẻ này thì không phải vậy, mục tiêu của vị ấy không chỉ là cõi trời. Vì đã hướng tâm đến Đạo, Quả và Niết–bàn (Nibbāna–magga–phala), nên khi chưa đạt được mục tiêu đó, trong lòng vị ấy đã khởi lên những nỗi lo lắng, day dứt.

Đó chính là kukkucca. Chúng ta phải thực hành để loại bỏ những loại kukkucca này.

Khi vị Tỷ–kheo trẻ trình bạch như vậy, để giúp vị ấy đoạn trừ những nỗi lo lắng, Đức Phật đã thuyết pháp.

“Này Tỷ–kheo, con hãy lắng nghe cho kỹ –”

“Cakkhuṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā – Con mắt là thường hay vô thường?”

Bắt đầu từ đây, Ngài đã thuyết giảng.

Vị ấy trả lời: “Là vô thường ạ.”

Câu hỏi không dễ trả lời

……………………………

Nếu câu hỏi này được trả lời một cách tùy nghi theo ý của người hỏi, thì nó rất dễ dàng.

Vì biết người hỏi có ý gì khi hỏi, nên ngày nay trong các buổi thuyết pháp, thính chúng thường nhìn vào thái độ của vị giảng sư để trả lời những câu hỏi dạng này.

Nhưng câu hỏi của Đức Phật ở đây là hỏi để người trả lời phải trả lời sau khi đã biết một cách chắc chắn. Do đó, trả lời câu hỏi này không hề dễ dàng.

“Con mắt là thường hay vô thường?”, chỉ khi nào trong tuệ của mình thấy được sự vô thường thì mới có thể trả lời được.

Một cách thô thiển, người ta có thể trả lời là “vô thường” vì hiểu rằng khi chết, con mắt này sẽ bị hủy hoại.

Hoặc, người ta cũng có thể trả lời “vô thường” vì hiểu rằng nếu con mắt này bị va chạm với vật gì đó, nó có thể bị hủy hoại. Cách trả lời như vậy chỉ là hời hợt.

Tuệ tu tập (Bhāvanā–ñāṇa)

……………….

Chỉ với chừng đó thì tuệ tu tập (bhāvanā–ñāṇa) sẽ không sanh khởi. Để tuệ tu tập sanh khởi, hành giả phải quán chiếu bằng tuệ minh sát (vipassanā–ñāṇa).

Khi quán chiếu danh–sắc khởi sanh ở sáu môn, mỗi khi mắt thấy, hành giả ghi nhận “thấy, thấy…”. Lúc đó, hành giả sẽ thấy rằng sắc con mắt, sắc cảnh được thấy, tâm biết thấy, và tâm ghi nhận – tất cả những pháp này, mỗi khi ghi nhận, chúng đều biến mất đi.

Chỉ khi đã biết được sự biến mất liên tục như vậy, người ta mới có thể trả lời câu hỏi này một cách chắc chắn.

Vị Tỷ–kheo này là một vị đang nỗ lực hành thiền, nên đã có thể trả lời câu hỏi của Đức Phật. Do đó, khi được hỏi: “Con mắt là thường hay vô thường?”, vị ấy đáp: “Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Tại sao lại vô thường? Bởi vì vị ấy đang thấy rằng, mỗi khi thấy, sau khi thấy liền biến mất, sau khi thấy liền biến mất.

“Còn cảnh sắc thì sao, là thường hay vô thường?” Cảnh sắc cũng vậy, sau khi được thấy liền biến mất, sau khi được thấy liền biến mất, nên vị ấy trả lời: “Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

“Còn cái biết thấy thì sao?” Cái tâm biết thấy, gọi là nhãn thức (cakkhu–viññāṇa), cũng biến mất sau khi thấy, nên vị ấy trả lời: “Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

“Còn sự thấy thì sao?” Sự thấy này cũng biến mất sau khi thấy, nên vị ấy trả lời: “Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

“Sau khi thấy, cảm nhận tốt hay xấu thì sao?” Điều đó cũng vậy, sau khi cảm nhận tốt hay xấu, nó liền biến mất, nên vị ấy trả lời: “Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Tất cả những pháp này đều là pháp vô thường. Đó là Đức Phật đang nói về những pháp vô thường.

Từ sự nghe cũng vậy: tai, âm thanh được nghe, tâm biết nghe, sự cảm nhận âm thanh trong tai, và những cảm giác dễ chịu hay khó chịu sau khi nghe những âm thanh tốt hay xấu…

Những pháp này cũng vậy, sau khi nghe liền biến mất, sau khi nghe liền biến mất, nên chúng đều là pháp vô thường.

Tương tự như vậy, tại lúc ngửi, lúc nếm, lúc xúc chạm, tất cả đều chỉ là vô thường.

Tại lúc xúc chạm thì có nhiều đối tượng để quán nhất. Khi xúc chạm,

có thân sắc nơi xúc chạm, gọi là thân tịnh sắc (kāya–pasāda);

có sự xúc chạm tốt hay xấu;

có những cái biết sau khi xúc chạm;

và tại nơi xúc chạm đó, có những cảm thọ (vedanā) dễ chịu, khó chịu.

Tất cả những thứ này sau khi được biết đến đều biến mất. Mỗi khi ghi nhận, những sự xúc chạm đó, sau khi chạm liền biến mất, sau khi chạm liền biến mất, chúng chỉ toàn là biến mất.

Cử động co, duỗi cũng chính là những sự xúc chạm. Khi ghi nhận “co”, nó vừa khởi lên liền biến mất; khi ghi nhận “duỗi”, nó vừa khởi lên liền biến mất, chỉ toàn là những pháp khởi lên rồi biến mất.

Rồi những cảm giác trong thân như mỏi, nóng, đau, nhức – những thứ này cũng vậy, khi ghi nhận, ghi nhận, chúng chỉ toàn là biến mất.

Ghi nhận “mỏi”, nó sẽ biến mất.

Nóng, đau, tê, nhức, cứng – mỗi khi những thứ này khởi lên, hãy ghi nhận, và mỗi khi ghi nhận, chúng chỉ toàn là biến mất.

Những pháp này là những pháp rõ rệt khi thân có sự xúc chạm. Chúng xúc chạm rồi biến mất, xúc chạm rồi biến mất. Thiền sinh tự mình thấy được điều này.

Khi suy nghĩ, tư duy, tưởng tượng, cả tâm, cả đối tượng hiện lên trong suy nghĩ, cả tâm biết đối tượng, cả xúc (phassa), tất cả đều biến mất.

Sau khi suy nghĩ, tư duy, có lúc hoan hỷ, có lúc buồn phiền, cũng có lúc chỉ có cảm giác xả thản nhiên.

Những cảm thọ (vedanā) đó, hỏi rằng có thường không, thì câu trả lời là không thường. Tại sao? Bởi vì chúng sanh rồi diệt.

Đối với những vị đang nỗ lực hành thiền cũng vậy, mỗi khi có gì khởi lên từ 6 môn, hãy ghi nhận. Mỗi khi ghi nhận, chúng khởi lên rồi biến mất, chỉ có vậy. Không có gì tồn tại, thường hằng cả. Thiền sinh tự mình thấy được những điều này.

Do đó, những pháp khởi lên rồi biến mất này được gọi là pháp vô thường. Vì là vô thường, nên chúng là khổ.

Chúng không phải là một con người, một chúng sanh. Chúng chỉ là những pháp sanh diệt theo từng khoảnh khắc của chúng.

Vì vậy, phải quán chiếu những pháp này là anicca – pháp vô thường, dukkha – pháp khổ, anattā – pháp vô ngã, không thể điều khiển.

Mặc dù nói là khổ (dukkha), nhưng không phải là cảm giác khó chịu. Ý muốn nói rằng đó là pháp không đáng để ưa thích, vui thú, không đáng để nương tựa.

Những pháp này, sau khi sanh khởi, liền lập tức biến mất. Làm sao có thể nương tựa được? Thực ra, mỗi khi chúng hoại diệt, đó đều là khoảnh khắc có thể chết. Nếu danh–sắc mới không sanh khởi, thì chỉ có cái chết mà thôi.

Do đó, nó vô cùng đáng sợ. Vì đáng sợ như vậy, nên được gọi là khổ (dukkha).

Và vì nó sanh diệt theo bản chất của nó, nên nó là pháp không thể điều khiển. Một thứ không thể điều khiển thì làm sao có thể là tự ngã, là sở hữu của ta được? Nó chỉ có thể là vô ngã (anattā).

Do đó, Đức Phật đã thuyết giảng cho vị Tỷ–kheo trẻ phải quán chiếu những pháp ấy là anicca, dukkha, anattā.

Có thể tự mình biết bằng trí tuệ của mình rằng con đường tu tập đã đến hồi kết thúc

……………………………………

Khi đã thấy được là anicca, dukkha, anattā như vậy, đối với những pháp ấy:

Nibbindati – nhàm chán.

Khi nhàm chán thì:

Nibbindaṃ virajjati – đối với những pháp đã nhàm chán, lòng tham ái, dính mắc dứt sạch.

Khi ấy: Virāgā vimuccati – do ly tham nên được giải thoát.

Khi đã giải thoát như vậy, đúng như lời dạy:

Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ… – Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành…

Người ấy có thể tự mình biết bằng trí tuệ của mình rằng kiếp sống mới đã chấm dứt, con đường tu tập đã đến hồi kết thúc.

Đức Phật đã thuyết giảng cho vị Tỷ–kheo trẻ cho đến khi vị ấy chứng đắc A–la–hán Đạo và Quả.

Trong khi đang lắng nghe bài pháp này, vị Tỷ–kheo trẻ bị bệnh (gilāna) đã đắc quả A–la–hán.

Lúc đó, những sự bất an, hối hận, lo lắng (vippaṭisāra, kukkucca) đã nói lúc nãy cũng hoàn toàn tan biến.

Việc dứt trừ hoàn toàn những thứ này là vô cùng quan trọng. Do đó, các thiền sinh đang nỗ lực hành thiền, dù cho giai đoạn đầu pháp hành chưa được trọn vẹn, cũng đừng nên nản lòng.

Giống như vị Tỷ–kheo trẻ bị bệnh này, vào lúc lâm chung, bằng cách chú tâm nỗ lực theo phương pháp mình vẫn thường thực hành, quý vị vẫn có thể chứng đắc các pháp thù thắng.

Vị Tỷ–kheo trẻ này đã không chỉ đạt được các Đạo Quả thấp, mà đã đạt đến A–la–hán Đạo và Quả. Đó cũng là một điều để chúng ta phấn chấn.

Hơn nữa, để cho những sự bất an (vippaṭisāra), lo lắng (kukkucca) không khởi sanh vào lúc lâm chung, việc nỗ lực hành thiền từ sớm, trước khi già, bệnh, chết đến, là vô cùng quan trọng.

Kukkucca (sự hối hận, lo lắng) được đoạn trừ từ khi trở thành bậc A–na–hàm (Anāgāmī).

Đối với bậc A–la–hán (Arahant) thì không cần phải nói thêm nữa. Vị nào đã đoạn trừ được kukkucca như vậy, vị ấy được gọi là bậc Tịch tịnh (Santa–puggala), một người an lạc.

–––––––––––––––

Trích đăng và thành kính cúng dường từ bài pháp về kinh Purebheda do Đức Thiền sư Mahasi Sayadaw, bậc Đại Ân, thuyết giảng.

Credit–

–––––––––––––––

Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/18ZZmxsCp4/

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 23/9/2025