Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15
[Tứ Thánh Đế – Chi tiết về Khổ thánh đế] – Shwe Hinthar Sayadaw
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
https://www.facebook.com/share/p/1R7R5twbmA/
#pqtnx #myanmarsayadaw #ShweHintharSayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Gemini pro 2.5, ngày 23.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/17NZz27Dft/
–––––––––––––––
Quán Pháp Niệm Xứ (Dhammānupassanā Satipaṭṭhāna)
Phần (13/15)
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Saccapabba – Phẩm Thánh Đế
Tóm lược Tứ Diệu Đế
Đức Phật, sau khi đã thuyết giảng về Bojjhaṅgapabba – Phẩm Giác Chi, bấy giờ để thuyết giảng về Saccapabba – Phẩm Thánh Đế, Ngài đã dạy rằng:
Puna caparaṃ bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammā–nupassī viharati catūsu ariyasaccesu (Lại nữa, này các Tỳ–kheo, Tỳ–kheo trú, quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế), v.v…
Này các Tỳ–kheo, lại nữa, trong giáo pháp này, người xuất gia làm Tỳ–kheo phải quán và biết Bốn Thánh Đế chính là Bốn Thánh Đế.
Phải biết và quán về Bốn Thánh Đế như thế nào? Tóm lược như sau:
* Các pháp này là Khổ Thánh Đế (Dukkhasacca), là những sự khổ chân thật.
* Các pháp này là Tập Thánh Đế (Samudayasacca).
* Pháp này là Diệt Thánh Đế (Nirodhasacca).
* Các pháp này là Đạo Thánh Đế (Maggasacca).
Phải quán và biết như vậy đúng theo sự thật.
.
Ý nghĩa tóm lược
–––––––––––––––
Ngoại trừ Tập Thánh Đế (Samudayasacca) là tham ái (taṇhā), tất cả các pháp hữu vi (saṅkhata–dhamma) là danh và sắc thuộc ba cõi còn lại đều là sự khổ chân thật, sự khổ đích thực, là Khổ Thánh Đế (Dukkhasacca).
Tham ái trong kiếp trước (purimataṇhā), là nguyên nhân sanh khởi của khổ, chính là Tập Thánh Đế (Samudayasacca).
Sự chấm dứt của khổ và nguyên nhân của khổ là Diệt Thánh Đế (Nirodhasacca).
Tám Thánh Đạo chi (ariyāmaggaṅga), bao gồm việc thấy rõ khổ, đoạn trừ nguyên nhân của khổ, và chứng ngộ Niết–bàn (Nibbāna), chính là pháp hành, là con đường đưa đến Niết–bàn, tức Đạo Thánh Đế (Maggasacca).
Ngài mong muốn chúng ta biết về Bốn Thánh Đế như vậy.
Hết phần tóm lược Tứ Diệu Đế.
–––––––––––––––
Chi tiết Tứ Diệu Đế
–––––––––––––––
Khổ do Sanh (Jāti Dukkha)
–––––––––––––––
Trong Bốn Thánh Đế, để thuyết giảng chi tiết về Khổ Thánh Đế trước tiên, Đức Phật đã dạy: Katamñca bhikkhave dukkhaṃ ariyasaccaṃ, jātipi dukkhā (Này các Tỳ–kheo, thế nào là Khổ Thánh Đế? Sanh cũng là khổ), v.v…
Ngài dạy rằng: “Này các Tỳ–kheo, thế nào là Thánh Đế về Khổ? Này các Tỳ–kheo, sanh cũng là Khổ Thánh Đế, là sự khổ chân thật.”
Ở đây, nên hiểu “sanh” (jāti) là gì.
Theo nghĩa tục đế (sammuti–paññatti), jāti có nghĩa là sự sanh, sự hiện hữu, sự nhập thai, sự xuất hiện của tất cả chúng sanh trong 31 cõi.
Theo nghĩa chân đế (paramattha), jāti có nghĩa là sự xuất hiện rõ ràng của các uẩn (khandha) trong mỗi cõi, mỗi kiếp sống. Ngài dạy rằng sự sanh này là Khổ Thánh Đế chân thật.
Tại sao sanh lại là Khổ Thánh Đế, là sự khổ chân thật? Bởi vì sanh là nơi phát sanh, là nguyên nhân phát sanh của vô số khổ đau không thể đếm xuể, nên sanh thực sự là Khổ Thánh Đế.
Vô số các loại khổ đó là:
* Khổ khổ (Dukkha–dukkha),
* Hoại khổ (Vipariṇāma–dukkha),
* Hành khổ (Saṅkhāra–dukkha),
* Khổ ẩn tàng (Paṭicchanna–dukkha),
* Khổ không ẩn tàng (Appaṭicchanna–dukkha),
* Khổ gián tiếp (Pariyāya–dukkha),
* Khổ trực tiếp (Nippariyāya–dukkha).
Trong 7 loại đó:
* Thân khổ (kāyika–dukkha) và tâm khổ (cetasika–dukkha) được gọi là Khổ khổ (Dukkha–dukkha) vì chúng có bản chất là cảm thọ khổ, được gọi là khổ, và bản chất là đau đớn.
* Thọ lạc (sukhavedanā) được gọi là Hoại khổ (Vipariṇāma–dukkha) vì nó là nguyên nhân của khổ khi biến đổi và hoại diệt.
* Thọ xả (upekkhāvedanā) và các pháp hữu vi (saṅkhāra) còn lại trong ba cõi được gọi là Hành khổ (Saṅkhāra–dukkha) vì chúng bị sự sanh diệt bức bách.
* Nỗi khổ bị xiên cọc, sự nóng nảy do tham (rāga), sự nóng nảy do sân (dosa), và các nỗi đau nhức khác nơi thân và tâm được gọi là Khổ ẩn tàng (Paṭicchanna–dukkha) vì chỉ có thể biết được khi hỏi, và vì sự nỗ lực (để chịu đựng) không rõ ràng.
* Các loại bệnh tật do 32 loại nghiệp quả v.v… gây ra được gọi là Khổ không ẩn tàng (Appaṭicchanna–dukkha) vì có thể biết được mà không cần hỏi, và vì sự nỗ lực (để chữa trị) là rõ ràng.
* Ngoại trừ Khổ khổ (Dukkha–dukkha), tất cả các pháp còn lại như sanh (jāti) v.v… được gọi là Khổ gián tiếp (Pariyāya–dukkha) vì chúng là nguyên nhân của các loại khổ kia.
* Khổ khổ (Dukkha–dukkha) được gọi là Khổ trực tiếp (Nippariyāya–dukkha) hay khổ chính yếu. Sanh là nơi nương tựa của các loại khổ này, vì vậy sanh là Khổ Thánh Đế.
Ngoài ra, sự khổ của sanh còn được thể hiện ở những điểm khác.
Các chúng sanh rơi vào cõi dữ phải chịu đựng nỗi khổ của bốn đường ác (āpāyika–dukkha).
Trong cõi người, thế giới loài người, cũng có nỗi khổ bắt đầu từ việc nhập thai vào bụng mẹ (gabbhokkanti–mūla).
Vì sanh là nơi nương tựa, là nơi phát sanh của nỗi khổ đó, nên sanh là Khổ Thánh Đế chân thật, là sự khổ chân thật.
Lời nói ấy hoàn toàn đúng sự thật.
Bởi vì, khi một chúng sanh nào đó trú ngụ trong bụng mẹ, nó không được ở một nơi tốt đẹp, thơm tho như trong hoa sen xanh, hoa sen hồng, hay hoa sen trắng.
Thực tế, nó phải ở dưới dạ dày (bao tử chứa thức ăn mới) và trên ruột già (nơi chứa thức ăn cũ). Nơi ở đó nằm giữa nước ối và xương sống của người mẹ, vô cùng chật chội, hoàn toàn không có ánh sáng, tối tăm mịt mù, và bị bao trùm bởi mùi của vô số loại vi trùng. Nó phải sống trong cái bụng vô cùng ghê tởm đó như những con dòi trong cá ươn, cơm thiu, hay hố phân.
Chúng sanh đó, trong suốt mười tháng trong bụng mẹ, bị nấu chín bởi huyết dịch và hỏa đại (usmātejo–dhātu) của người mẹ, giống như một gói cơm được hâm lại. Nó trở thành một khối như bột gạo, bột mì, không thể co duỗi, phải chịu đựng nỗi khổ cùng cực. Nỗi khổ này là nỗi khổ phải chịu khi nhập vào bụng mẹ do có sanh.
Hơn nữa, khi người mẹ vô tình vấp ngã, hoặc khi ngồi xuống, đứng lên, hoặc trở mình từ bên này sang bên kia, chúng sanh đó lại phải chịu đau đớn vô cùng, bị kéo, bị đẩy, bị ép, giống như một con cừu non trong tay kẻ say rượu, hay một con rắn nhỏ trong tay người bắt rắn.
Khi người mẹ uống nước lạnh, nó cảm thấy khổ như rơi vào địa ngục nước lạnh. Khi người mẹ uống cháo nóng, nước nóng, hoặc ăn cơm nóng, nó lại khổ như bị mưa than hồng thiêu đốt. Đây là nỗi khổ phải chịu trong bụng mẹ do có sanh.
Hơn nữa, nếu người mẹ không sinh nở dễ dàng, bà con thân thuộc phải thực hiện các thủ thuật như cắt, mổ ở nơi sinh kín đáo để đứa bé ra đời, gây ra đau đớn. Đây cũng là nỗi khổ có nguồn gốc từ sự bất thường của thai kỳ, do có sanh.
Hơn nữa, khi sinh ra (ý nói sinh thường), nghiệp phong (kammaja–vāta) làm đảo lộn chúng sanh đó, khiến nó đi qua cửa mình (âm đạo) vô cùng đáng sợ như rơi xuống vực thẳm. Bị kéo ra từ cửa mình vô cùng chật hẹp như bị kẹp sắt lôi ra, nó phải chịu đau đớn tột cùng. Sự đau khổ như vậy là nỗi khổ của việc sinh ra, do có sanh.
Hơn nữa, đứa trẻ sơ sinh với làn da non nớt như da non của vết thương, khi được bế, ẵm, tắm rửa, quấn tã, nó phải chịu đựng sự đau đớn như bị kim châm, như bị dao sắc đâm. Sự đau khổ như vậy được gọi là gabbhanikkhamana–mūlaka–dukkha, nỗi khổ gốc rễ từ việc ra khỏi thai mẹ, do có sanh.
Ngoài ra, còn có:
* Khổ do tự mình gây ra (Attūpakkamūladukkha),
* Khổ do người khác gây ra (Parapakkamūladukkha).
Trong hai loại khổ đó:
* Việc tự mình giết mình, hành hạ mình, thực hành hạnh lõa thể (acelaka), hơ lửa, tắm nước (lạnh), tức giận mà không ăn uống… được gọi là Khổ do tự mình gây ra.
* Việc bị người khác giết hại, giam cầm… được gọi là Khổ do người khác gây ra.
Những nỗi khổ này cũng là khổ do sanh, vì chúng xảy ra do có sanh, lấy sanh làm nhân.
Hết phần Khổ do Sanh.
–––––––––––––––
Khổ do Già (Jarā Dukkha)
–––––––––––––––
Jarāpi dukkhā.
Jarāpi, sự già; dukkhā, cũng là khổ.
Để chỉ ra bản chất của sự già (jarā), Đức Phật đã thuyết giảng: “Yā tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhi tamhi sattanikāye jarā, jīraṇatā, khaṇḍiccaṃ, pāliccaṃ, valittacatā, āyuno saṃhāni, indriyānaṃ paripāko, ayaṃ vuccati bhikkhave jarā” (Này các Tỳ–kheo, trong mỗi loài chúng sanh, sự già nua, sự suy yếu, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ suy giảm, các căn chín muồi [suy yếu], đó được gọi là già).
Trong mỗi quốc gia, mỗi làng mạc, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, sự già nua, sự suy yếu, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ suy giảm, các căn như nhãn thanh triệt (cakkhu–pasāda) trở nên suy yếu, hư hỏng, đó là bản chất của sự già.
Vì mọi người đều tự mình trải nghiệm và chứng kiến bản chất của sự già nên không cần phải giải thích chi tiết thêm.
Hết phần Khổ do Già.
–––––––––––––––
Khổ do Chết (Maraṇa Dukkha)
–––––––––––––––
Maraṇampi dukkhaṃ.
Maraṇampi, sự chết; dukkhaṃ, cũng là khổ.
Để chỉ ra bản chất của sự chết (maraṇa), Đức Phật đã thuyết giảng: “Yaṃ tesaṃ tesaṃ sattānaṃ tamhā tamhā sattanikāyā cuti, cavanatā, bhedo, antaradhānaṃ, maccu, maraṇaṃ, kālakiriyā, khandhānaṃ bhedo, kaḷevarassa nikkhepo, jīvitindriyupacchedo, idaṃ vuccati bhikkhave maraṇaṃ”
(Này các Tỳ–kheo, sự từ bỏ, sự ra đi, sự tan rã, sự biến mất, cái chết, sự mệnh chung, sự làm tròn thời gian, sự tan rã của các uẩn, sự vứt bỏ thân xác, sự đoạn tuyệt của mạng căn, từ mỗi loài chúng sanh, đó được gọi là chết).
Sự từ bỏ, sự ra đi, sự tan rã, sự biến mất, cái chết, sự mệnh chung, sự tan rã của các uẩn, sự vứt bỏ thân xác, sự đoạn tuyệt của mạng căn (jīvitindriya) khỏi mỗi quốc gia, làng mạc, dân tộc, cộng đồng, đó là bản chất của sự chết. Vì mọi người đều chứng kiến bản chất của sự chết nên không cần phải giải thích chi tiết thêm.
Hết phần Khổ do Chết.
–––––––––––––––
Khổ Thánh Đế (Dukkhasacca)
Sầu (Soka)
–––––––––––––––
Qua câu Katamo ca bhikkhave soko (Này các Tỳ–kheo, thế nào là sầu?), v.v…, Ngài dạy rằng: Khi gặp phải một trong năm loại tai họa (byasana) như tai họa về người thân (ñātibyasana), hoặc khi gặp phải một nguyên nhân gây khổ nào đó, sự nóng nảy, buồn rầu, mệt mỏi, đau khổ trong nội tâm được gọi là sầu.
Ở đây, nên biết trước về năm loại tai họa (byasana):
* Tai họa về người thân (Ñātibyasana),
* Tai họa về tài sản (Bhogabyasana),
* Tai họa về bệnh tật (Rogabyasana),
* Tai họa về giới hạnh (Sīlabyasana),
* Tai họa về tà kiến (Diṭṭhibyasana).
* Một người nương tựa vào bà con thân thuộc, khi những người thân mà mình nương tựa lần lượt qua đời, mất đi, đó gọi là tai họa về người thân.
* Tài sản mà mình đã vất vả tìm kiếm, tích cóp bị mất mát, hủy hoại do nước, lửa, vua chúa, trộm cắp… đó gọi là tai họa về tài sản.
* Bị bệnh tật hành hạ đến mức không thể tìm cầu, trau dồi trí tuệ, tài sản hay các thiện pháp, công đức, đó gọi là tai họa về bệnh tật.
* Giới hạnh mà mình đang thực hành, hoặc những tập quán tốt đẹp đã được tuân thủ theo truyền thống gia đình bị hư hoại, đó gọi là tai họa về giới hạnh.
* Sự sai lệch, hư hoại trong quan điểm, chủ thuyết, đó gọi là tai họa về tà kiến.
Năm sự hư hoại này được gọi là năm tai họa.
–––––––––––––––
Bi (Parideva)
–––––––––––––––
Katamo ca bhikkhave paridevo (Này các Tỳ–kheo, thế nào là bi?). Khi gặp phải một trong năm tai họa, việc la khóc, kêu gào “con gái tôi”, “con trai tôi”, hoặc kể lể công đức của ai đó mà khóc lóc, than van, đó gọi là bi.
–––––––––––––––
Khổ (Dukkha)
–––––––––––––––
Katamañca bhikkhave dukkhaṃ (Này các Tỳ–kheo, thế nào là khổ?). Khi thân thanh triệt (kāya–pasāda) và xúc trần (phoṭṭhabbārammaṇa) tiếp xúc với nhau, cảm giác không dễ chịu phát sinh do thân xúc (kāyasamphassa) được gọi là khổ, gọi là thân khổ (kāyika–dukkha).
–––––––––––––––
Ưu (Domanassa)
–––––––––––––––
Katamañca bhikkhave domanassaṃ (Này các Tỳ–kheo, thế nào là ưu?). Nỗi khổ về tâm sở (cetasika–dukkha) đi cùng với tâm, có tính chất không hài lòng, được gọi là ưu.
–––––––––––––––
Não (Upāyāsa)
–––––––––––––––
Katamo ca bhikkhave upāyāso (Này các Tỳ–kheo, thế nào là não?). Khi gặp phải một trong năm tai họa, bản chất của sự nóng nảy, phiền muộn mãnh liệt trong tâm được gọi là não.
–––––––––––––––
Khổ do Gặp Gỡ Điều Không Yêu Thích (Appiyasampayogadukkha)
–––––––––––––––
Katamo bhikkhave appiyehi sampayogo dukkho (Này các Tỳ–kheo, thế nào là khổ do gặp gỡ điều không yêu thích?). Tôi sẽ cố gắng viết để mọi người có thể hiểu ý nghĩa của khổ do gặp gỡ điều không yêu thích (Appiyasampayogadukkha) và khổ do xa lìa điều yêu thích (Piyavippayogadukkha).
Khi một người đối mặt, gặp gỡ một người, một chúng sanh, hay một sắc trần nào đó mà mình không muốn thấy, không muốn nhìn, sự khó chịu trong lòng phát sinh, đó gọi là nỗi khổ do gặp gỡ sắc trần không ưa thích.
Tương tự, khi gặp phải và nghe những âm thanh không muốn nghe như tiếng loa phóng thanh ồn ào, tiếng súng, tiếng bom, tiếng đại bác, sự khó chịu trong lòng phát sinh, đó gọi là nỗi khổ do gặp gỡ thanh trần không ưa thích, không dễ chịu.
Khi gặp phải hương trần, vị trần, xúc trần không dễ chịu, sự khó chịu trong lòng do phải gặp gỡ những đối tượng không mong muốn đó cũng gọi là khổ, là Appiyasampayogadukkha.
Do nhãn thanh triệt (cakkhu–pasāda) không trong sáng, tốt đẹp, không thể nhìn thấy như người khác, sự đau khổ phát sinh cũng gọi là khổ. Tương tự, sự đau khổ do không nghe được, không ngửi được, không biết được vị… cũng gọi là khổ.
Không ai mong muốn, không ai thích sự suy giảm, hư hoại của các thanh triệt (pasāda) như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
Nỗi khổ phát sinh do sự gặp gỡ, có được những thanh triệt suy yếu mà mình không mong muốn, không ưa thích trong thân mình chính là Appiyasampayogadukkha. Ý muốn nói đó là nỗi khổ phát sinh do phải gặp gỡ những pháp hữu vi không mong muốn.
Việc gặp gỡ một người không mong muốn lợi ích cho mình, chỉ muốn thấy mình bị hủy hoại, cũng gọi là khổ. Cứ như thế, các loại Appiyasampayogadukkha phát sinh.
–––––––––––––––
Khổ do Xa Lìa Điều Yêu Thích (Piyavippayogadukkha)
–––––––––––––––
Nỗi khổ do phải chia ly, sống xa cách cha mẹ, bà con thân thuộc yêu quý ở những nơi khác nhau; nỗi khổ do phải sống xa cách ở những quốc gia khác nhau; nỗi khổ do phải từ bỏ, không có được sắc trần mà mình muốn có; tương tự, sự đau khổ do mong muốn mà không có được, phải xa lìa các đối tượng dễ chịu, đáng ưa thích như thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần… cũng là các loại Piyavippayogadukkha.
Ngài dạy rằng, việc phải gặp gỡ những điều không muốn thấy, không muốn nhìn, không ưa thích, và việc phải xa lìa những điều ưa thích, mong muốn cũng chính là khổ.
Shwe Hinthar Sayadaw
Giáo Pháp của Đức Phật Cao Quý
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web
–––––––––––––––
Bài viết gốc tiếng Myanmar, trên fb của U Hlaing Myint, xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/17NZz27Dft/
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
