Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15

[Bojjhaṅga–pabba – Phần Các Giác Chi]

– Shwe Hinthar Sayadaw

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

https://www.facebook.com/share/17FRaNz39Z/

–––––––––––––––

Bản dịch Việt của Deapseek ngày 20.9.2025 này chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/19QC2MJv1f/

–––––––––––––––

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ Phần 11/15 ▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

◾ Bojjhaṅga–pabba – Phần Các Giác Chi

◾ Bảy Giác Chi

Sau khi đức Thế Tôn đã thuyết xong Dhammānupassanā āyatanapabba (Phần Quán Pháp Các Xứ), nay Ngài thuyết Bojjhaṅgapabba (Phần Các Giác Chi) – (Punaca paraṃ bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati sattasu bojjhaṅgesu…) – bằng cách thuyết rằng: “Lại nữa, này các Tỳ–kheo, vị Tỳ–kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bảy Giác chi”.

Ý nghĩa cốt lõi là Ngài muốn dạy rằng cần phải tu tập các pháp chính là bảy Giác chi. Do đó, trước tiên nên hiểu thế nào là Bojjhaṅga (Giác chi).

Bojjhaṅga (Giác chi) là: Bujjhatīti bodhi. Bujjhati: Hiểu biết. Iti: Do đó. Bodhi: (Nên gọi là) Giác ngộ. (Hoặc, do thức tỉnh nên gọi là Giác ngộ).

“Hiểu biết” – hiểu biết điều gì? Có nghĩa là hiểu biết Tứ Diệu Đế. Cũng có thể nói là thức tỉnh, đứng dậy khỏi sự ngủ say chính là dòng chảy của các phiền não.

Một cách nói khác, hiểu biết Niết–bàn bằng trí tuệ, thể nhập trực tiếp.

Bodhiya aṅgā bojjhaṅgo. Bodhiyā:(Của sự) hiểu biết Tứ Diệu Đế. Aṅgā:Là thành phần, chi phần. Bojjhaṅgo:Là chi phần (aṅga) dẫn đến (nguyên nhân) sự hiểu biết Tứ Diệu Đế.

Các chi phần của trí tuệ Giác ngộ (bodhiñāṇa) chính là: Niệm (sati), Trạch pháp (dhammavicaya), Tinh tấn (vīriya), Hỷ (pīti), Khinh an (passaddhi), Định (samādhi), và Xả (upekkhā).

Chính nhờ tổng thể các pháp thiện này (dhammasāmaggī) mà hiểu biết được Tứ Diệu Đế. Do vậy, bảy pháp này được gọi là Giác chi (Bojjhaṅga).

Một cách giải thích khác:

Ariyasāvako bujjhatīti bodhi. Yo ariyasāvako:Vị Thánh đệ tử của đức Phật. Bujjhati:Hiểu biết giáo pháp Tứ Diệu Đế. So:Vị Thánh đệ tử ấy. Bodhi:Được gọi là (bậc) Giác ngộ.

Bodhissa aṅgā bojjhaṅgo. Bodhissa:(Của vị) Thánh đệ tử đã hiểu biết Tứ Diệu Đế. Aṅgā:Là chi phần, nguyên nhân. Bojjhaṅgo:Là chi phần (nguyên nhân) của vị Thánh đệ tử đã hiểu biết Tứ Diệu Đế.

Các bậc Thánh nhân hiểu biết Tứ Diệu Đế nhờ các chi phần nguyên nhân là các Giác chi này. Do đó, chúng được gọi là Giác chi.

Pāsāṇo bojjhaṅgo sambojjhaṅgo. Một cách khác:Sundaro bojjhaṅgo sambojjhaṅgo.

Pāsāṇo: Được tôn vinh, được làm cho thuần thục. Bojjhaṅgo:Giác chi. Sambojjhaṅgo:Giác chi được tôn vinh/thuần thục (Sambojjhaṅga).

Hoặc: Sundaro:Tốt đẹp, vi diệu. Bojjhaṅgo:Giác chi. Sambojjhaṅgo:Giác chi tốt đẹp/vi diệu (Sambojjhaṅga).

Như vậy, nên hiểu ý nghĩa của từ Bojjhaṅga.

1. Satisambojjhaṅga (Giác chi Niệm) được hình thành theo cách: Satyeva sambojjhaṅgo satisambojjhaṅgo.

Satyeva: Chính niệm. Sambojjhaṅgo:Là Sambojjhaṅga (Giác chi). Satisambojjhaṅgo:Chính niệm chính là Sambojjhaṅga.

Có nghĩa là: Chính niệm là chi phần (aṅga) nguyên nhân cho sự hiểu biết Tứ Diệu Đế của các bậc Thánh.

Saraṇaṃ sati. Saraṇaṃ:Sự ghi nhớ, hồi tưởng. Sati:Niệm.

Sā asammoso. Sā:Niệm ấy. Asammoso:Có bản chất là không lơ là, không quên.

Sā sampayuttadhammānaṃ sāraṇalakkhaṇā. Sā:Niệm ấy. Sampayuttadhammānaṃ:Đối với các pháp (danh) tương ưng (đồng sanh) với nó. Sāraṇalakkhaṇā:Có đặc tính là làm cho (các pháp ấy) nhớ lại, hồi tưởng lại các thiện nghiệp, các điều lành.

Niệm này chỉ có đặc tính là làm cho nhớ lại, hồi tưởng lại các thiện nghiệp. Nó không có đặc tính làm cho nhớ lại các ác nghiệp. Mặc dù theo cách nói thông thường, người ta nói Chánh niệm (sammāsati) và Tà niệm (micchāsati), nhưng thực ra chỉ có Chánh niệm là tồn tại. Không có cái gọi là Tà niệm; trong Paramattthadīpanī có nói rằng việc gọi các tâm bất thiện là ‘tà niệm’ chỉ là một cách nói.

Phạm vi của Niệm rất rộng. Mặc dù nói là Tứ Niệm Xứ, nhưng thực chất chính Niệm được thiết lập. Chính Niệm đóng vai trò chủ đạo. Tóm lại, chỉ có một chi là Niệm. Trong Tứ Chánh Cần, Niệm cũng là pháp dẫn đầu.

1. Uppannānaṃ pāpakānaṃ pahānāya vāyāmo: Để từ bỏ các ác bất thiện pháp đã sanh, chính Niệm hoạt động như ngón tay chỉ đường, nhắc nhở rằng: “Các bất thiện pháp đang sanh khởi trong tâm ngươi, hãy từ bỏ chúng đi!”. Chỉ khi có sự nhắc nhở, ghi nhớ này của Niệm, thì các ác pháp ấy mới được thấy bằng tâm đi kèm với trí tuệ và bị đoạn trừ nhờ sự tinh tấn.

Do đó, trong việc đoạn trừ các ác pháp hèn kém đang sanh, Niệm là dẫn đầu.

2. Tương tự, để ngăn ngừa các bất thiện pháp chưa sanh không cho sanh khởi, cũng chính nhờ Niệm nhắc nhở trước, nên mới có thể ngăn giữ, phòng hộ và tránh xa được nhờ Tinh tấn.

3. Để làm cho các thiện pháp chưa sanh được sanh khởi, cũng nhờ Niệm nhắc nhở, thúc đẩy trước, nên mới thực hiện được nhờ Tinh tấn.

4. Để làm cho các thiện pháp đã sanh được tăng trưởng, cũng nhờ Niệm nhắc nhở, thúc đẩy, nên mới làm cho chúng tăng trưởng được nhờ Tinh tấn.

Phạm vi của Niệm không chỉ có thế. Trong 37 pháp Trợ Bồ Đề (Bodhipakkhiyadhamma), Niệm cũng có mặt như Tín Quyền (saddhindriya) trong Ngũ Quyền. Trong Ngũ Lực, nó cũng có mặt như Tín Lực (saddhābala). Trong Thất Giác Chi, nó có mặt như Niệm Giác Chi (Satisambojjhaṅga). Trong Bát Thánh Đạo, nó có mặt như Chánh Niệm (Sammāsati). Niệm là một pháp có phạm vi rộng lớn trong các điều thiện, là pháp Không Phóng Dật (Appamāda). Đức Thế Tôn cũng dạy: “Này các Tỳ–kheo, Ta nói rằng Niệm có lợi ích trong mọi trường hợp” (Satiṃ kho ahaṃ bhikkhave sabbatthikaṃ vadāmi). Do đó, đã có ví dụ rằng Niệm giống như muối trong món ăn. Và trong Chú giải (Aṭṭhakathā) cũng nói: Sati pana sabbattha balavatī vaṭṭati – nghĩa là: Niệm càng mạnh mẽ thì càng tốt trong mọi thiện nghiệp.

Tiếp tục: Việc tu tập Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassanā) có Niệm dẫn đầu thì càng tiến xa hơn. Niệm có nhiệm vụ bảo vệ tâm khỏi rơi vào Trạo cử (Uddhacca) và khỏi sự Dãi đãi, giải đãi (Kosajja, lười biếng). Niệm cũng được ví như vị quan đại thần thực hiện mọi công việc của nhà vua. Có nói rằng tâm có chỗ nương tựa chính là Niệm. Như vậy, Niệm là một pháp có tầm quan trọng và phạm vi rộng lớn. Trong bảy Giác chi, Satisambojjhaṅga (Niệm Giác Chi) được đặt lên đầu tiên và được thuyết giảng đầu tiên vì tầm quan trọng của nó.

Các Giác chi là:

1. Satisambojjhaṅga (Niệm Giác Chi)

2. Dhammavicayasambojjhaṅga (Trạch Pháp Giác Chi)

3. Vīriyasambojjhaṅga (Tinh Tấn Giác Chi)

4. Pītisambojjhaṅga (Hỷ Giác Chi)

5. Passaddhisambojjhaṅga (Khinh An Giác Chi)

6. Samādhisambojjhaṅga (Định Giác Chi)

7. Upekkhāsambojjhaṅga (Xả Giác Chi)

Có tất cả bảy chi. Ý nghĩa của Satisambojjhaṅga đã được trình bày vừa đủ.

2. Dhammavicayasambojjhaṅga (Trạch Pháp Giác Chi) là: Pháp có đặc tính quán sát, suy xét các pháp hành (saṅkhāradhamma), tức Danh–Sắc, là Dhammavicayasambojjhaṅga. Về bản chất, Tuệ Minh Sát (Vipassanāpaññā) chính là Dhammavicayasambojjhaṅga.

Dhammaṃ vicinātīti dhammavicayo. Dhammaṃ:Pháp, tức các pháp hành (saṅkhāra). Vicināti:Quán sát, suy xét. Iti:Do đó. Dhammavicayo:Gọi là Trạch Pháp. Dhammavicayo:Pháp quán sát các pháp hành.

Dhammavicayo yeva sambojjhaṅgo dhammavicayasambojjhaṅgo. Dhammavicayo yeva:Chính cái bản chất Trạch Pháp. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Dhammavicayasambojjhaṅgo:Chính Trạch Pháp là Giác chi.

Có nghĩa là: Chính Tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa) quán sát, phân biệt, suy xét Danh–Sắc, các pháp hành (saṅkhāradhamma) ấy, chính là chi phần nguyên nhân (aṅga) của Giác ngộ (Bodhi), tức sự thâm nhập và hiểu biết Tứ Diệu Đế.

3. Vīriyasambojjhaṅga (Tinh Tấn Giác Chi) là:

Vīrānaṃ bhāvo vīriyaṃ. Vīrānaṃ:Của những người dũng cảm, có nghị lực. Bhāvo:Trạng thái, bản chất. Vā:Hoặc là. Vīriyaṃ:Bản chất của những người dũng cảm, có nghị lực. Vā:Hoặc là.

Trong các công việc cần làm, trạng thái hay bản chất nỗ lực mạnh mẽ, không co rút, thối lui, được gọi là Tinh tấn (Vīriya). Tinh tấn này có đặc tính nâng đỡ, hỗ trợ (patthambhana) các danh pháp tương ưng đồng sanh với nó. Nhờ được hỗ trợ bởi Tinh tấn, các pháp tương ưng trở nên không co rút, không thối lui.

Vīriyo yeva sambojjhaṅgo vīriyasambojjhaṅgo. Vīriyo yeva:Chính Tinh tấn. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Vīriyasambojjhaṅgo:Chính Tinh tấn là Giác chi.

4. Pītisambojjhaṅga (Hỷ Giác Chi) là:

Pinayati kāyacittaṃ tappeti vaḍḍhetīti vā pīti. Kāyacittaṃ:Thân và tâm. Pinayati:Làm cho thỏa thích, hài lòng. Vā:Hoặc là. Kāyacittaṃ:Thân và tâm. Vaḍḍheti:Làm cho tăng trưởng. Iti:Do đó. Pīti:Gọi là Hỷ.

Hỷ này có đặc tính tiếp nhận đối tượng một cách thích thú (ārammaṇaṃ abhinandana). Nó có đặc tính làm cho các pháp tương ưng đồng sanh với nó cảm thấy thỏa thích, hài lòng trên đối tượng.

Pīti yeva sambojjhaṅgo pītisambojjhaṅgo. Pīti yeva:Chính Hỷ. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Pītisambojjhaṅgo:Chính Hỷ là Giác chi.

5. Passaddhisambojjhaṅga (Khinh An Giác Chi) là:

Passambhanaṃ passaddhi. Passambhanaṃ:Sự lắng dịu, an tịnh. Passaddhi:Sự an tịnh.

Trạng thái an tịnh được gọi là Passaddhi (Khinh an). Passaddhi này có hai loại: Thân khinh an (Kāyapassaddhi) và Tâm khinh an (Cittapassaddhi). Theo đó: Kāyapassaddhīti tiṇṇaṃ khandhānaṃ darathapassaddhi, Cittapassaddhīti viññāṇakhandhassa darathapassaddhi – nghĩa là: Sự an tịnh của ba uẩn – Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn – được gọi là Thân khinh an. Sự an tịnh của Thức uẩn được gọi là Tâm khinh an.

Ở đây, vì chỉ nói chung là Passaddhisambojjhaṅga, nên phải hiểu bao gồm cả hai loại Khinh an.

Passaddhi yeva sambojjhaṅgo passaddhisambojjhaṅgo. Passaddhi yeva:Chính Khinh an. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Passaddhisambojjhaṅgo:Chính Khinh an là Giác chi.

6. Samādhisambojjhaṅga (Định Giác Chi) là: Bản chất của Định (Samādhi) chính là Tâm sở Nhất hành (Ekaggatā cetasika). Ekaggatā này:

Nānārammaṇāvikkhepābhāvena ekaṃ aggaṃ ārammaṇaṃ imassāti ekaggaṃ, cittaṃ. Tassa bhāvo ekaggatā, samādhi, so avikkhepalakkhaṇo, tassa hi vasena sasampayuttaṃ cittaṃ avikkhittaṃ hoti. (Vibhāvinīṭīkā)

Yo sabhāvo: Bản chất nào. Nānārammaṇāvikkhepābhāvena:Do không có sự phóng tâm đến các đối tượng khác nhau. Imassa:Của bản chất này. Vā:Hoặc của tâm. Ekaṃ aggaṃ ārammaṇaṃ:Có một đối tượng duy nhất. Atthi:Hiện hữu. Iti:Do đó. So sabhāvo:Bản chất ấy. Ekaggaṃ:Được gọi là Nhất hành (Ekagga). Cittaṃ:(Ám chỉ) Tâm. Tassa:Của Nhất hành ấy. Bhāvo:Trạng thái, sự tồn tại. Ekaggatā:Là Tính nhứt hành (Ekaggatā). Samādhi:(Được gọi là) Định. So:Định ấy. Avikkhepalakkhaṇo:Có đặc tính là không phóng tâm. Hi:Bởi vì. Tassa:Của Định ấy. Vasena:Do năng lực, uy lực. Sasampayuttaṃ:Cùng với các tâm sở tương ưng. Cittaṃ:Tâm. Avikkhittaṃ:Không bị phân tán, không phóng tâm. Hoti:Trở thành.

Trong Samādhisambojjhaṅga, Samādhi chính là Tâm sở Nhất hành (Ekaggatā cetasika). Bản chất của Tâm sở Nhất hành là an trú, không phân tán, trên một đối tượng duy nhất. Nhờ năng lực của Samādhi, tức Ekaggatā, tâm cùng các tâm sở tương ưng không bị phóng tâm đến các đối tượng khác, mà chỉ an trú vững vàng trên đề mục thiền định (kammaṭṭhānārammaṇa).

Samādhi yeva sambojjhaṅgo samādhisambojjhaṅgo. Samādhi yeva:Chính Định. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Samādhisambojjhaṅgo:Chính Định là Giác chi.

Có nghĩa là: Định là một chi phần nguyên nhân (aṅga) trong việc hiểu biết Tứ Diệu Đế.

7. Upekkhāsambojjhaṅga (Xả Giác Chi) là:

Uppattito yuttito ikkhati anubhavati, vedayamānāpi majjhattākārena saṇḍhiti yāti upekkhā. Sukhadukkhānaṃ vā upetā yuttā aviruddhā ikkhānubhavananti upekkhā. (Vibhāvinīṭīkā)

Yā: Bản chất nào. Ārammaṇaṃ:Đối tượng. Uppattito yuttito:Một cách thích đáng, phù hợp. Ikkhati anubhavati:Cảm nghiệm, trải nghiệm. Vedayamānāpi:Dù đang cảm nhận hương vị của đối tượng. Majjhattākārena:Với cách thức trung lập, không thiên lệch. Saṇḍhiti:An trú. Iti:Do đó. Sā:Bản chất ấy. Upekkhā:Được gọi là Xả. Vā:Hoặc cách khác. Sukhadukkhānaṃ:Đối với Lạc và Khổ. Upetā yuttā:Có liên hệ, tương ứng. Aviruddhā:Không chống đối. Ikkhānubhavanaṃ:Có sự trải nghiệm, cảm nhận. Iti:Do đó. Upekkhā:Được gọi là Xả.

Bản chất của Xả là không chống đối với Lạc thọ (sukhavedanā), cũng không chống đối với Khổ thọ (dukkhavedanā); không nghiêng về phía Lạc, cũng không nghiêng về phía Khổ, mà an trú một cách cân bằng, ngay thẳng.

Tuy nhiên, về bản chất tự nhiên của Xả, vì có câu: Upekkhā santa vuttittā sukhamicceva bhāsitā (Xả, vì được nói là an tịnh, nên cũng được gọi là Lạc), nên có thể nói nó nghiêng về Lạc. Nhưng vì nó không chống đối với Lạc cũng không chống đối với Khổ, và vì là một pháp chỉ đơn thuần hướng tâm đến đối tượng của nó, nên về bản chất tự nhiên, do sự an tịnh, nó chỉ được gọi là Lạc mà thôi – điều này cần được hiểu như vậy.

Upekkhā yeva sambojjhaṅgo upekkhāsambojjhaṅgo. Upekkhā yeva:Chính Xả. Sambojjhaṅgo:Là Giác chi. Upekkhāsambojjhaṅgo:Chính Xả là Giác chi.

Xả, với bản chất an tịnh, là một chi phần nguyên nhân (aṅga) trong việc hiểu biết Tứ Diệu Đế, tức là Upekkhāsambojjhaṅga.

Qua các từ ngữ đã trình bày, ý nghĩa của bảy Giác chi đã được hiểu một cách tương đối.

Các Dưỡng Chất (Āhāra) của Giác Chi

Trong bài kinh Kāya Sutta do đức Thế Tôn thuyết, Ngài dạy về các dưỡng chất (āhāra) của bảy Giác chi, hay nói cách khác – những chỗ nương tựa, những nguyên nhân tồn tại và phát triển của các Giác chi. Hãy trình bày những dưỡng chất ấy.

“Này các Tỳ–kheo, thân này tồn tại nhờ vật thực (āhāra), nương tựa vào vật thực. Cũng vậy, này các Tỳ–kheo, bảy Giác chi này tồn tại nhờ vật thực, nương tựa vào vật thực mà sanh khởi.” Các dưỡng chất là nguyên nhân cho sự sanh khởi của các Giác chi chưa sanh, và cho sự viên mãn của các Giác chi đã sanh nhờ tu tập (bhāvanā).

1. Các dưỡng chất của Satisambojjhaṅga (Niệm Giác Chi) là:

37 pháp Trợ Bồ Đề (Bodhipakkhiyadhamma) và 9 pháp Siêu thế (Lokuttaradhamma) là các dưỡng chất – chỗ nương tựa, nguyên nhân sanh khởi và viên mãn – của Satisambojjhaṅga. Bằng cách tu tập, làm cho tăng trưởng nhiều lần với tác ý khéo léo (yonisomanasikāra), với Niệm làm dẫn đầu, đối với các pháp ấy, thì Satisambojjhaṅga sanh khởi.

2. Các dưỡng chất của Dhammavicayasambojjhaṅga (Trạch Pháp Giác Chi) là:

Các pháp thiện, bất thiện; các pháp có tội, không tội; các pháp hạ liệt, cao thượng – là các dưỡng chất của Dhammavicayasambojjhaṅga. Việc phân tích, quán sát nhiều lần với tác ý khéo léo đối với các pháp ấy chính là Dhammavicayasambojjhaṅga.

3. Các dưỡng chất của Vīriyasambojjhaṅga (Tinh Tấn Giác Chi) là:

(1) Ārambhadhātu (Căn nguyên khởi sự) (2)Nikkamadhātu (Căn nguyên xuất ly) (3)Parakkamadhātu (Căn nguyên dũng mãnh) Ba căn nguyên(dhātu) này là các dưỡng chất của Vīriyasambojjhaṅga.

(1) Tinh tấn khởi sự ban đầu gọi là Ārambhadhātu. (2)Tinh tấn vượt khỏi sự dãi đãi gọi là Nikkamadhātu. (3)Tinh tấn có sức mạnh vượt trội các căn nguyên trước gọi là Parakkamadhātu.

Việc nỗ lực tu tập các pháp của bậc Thánh với tinh tấn được tràn đầy bởi ba loại căn nguyên tinh tấn này chính là Vīriyasambojjhaṅga.

4. Các dưỡng chất của Pītisambojjhaṅga (Hỷ Giác Chi) là:

Các pháp là đối tượng của Hỷ (Pīti) là các dưỡng chất – chỗ nương tựa – của Pīti. Việc tu tập, làm cho tăng trưởng nhiều lần với tác ý khéo léo đối với các đối tượng ấy chính là Pītisambojjhaṅga.

5. Các dưỡng chất của Passaddhisambojjhaṅga (Khinh An Giác Chi) là:

Sự an tịnh của ba uẩn – Thọ, Tưởng, Hành – tức Thân khinh an (Kāyapassaddhi), và sự an tịnh của Thức uẩn, tức Tâm khinh an (Cittapassaddhi), là các dưỡng chất của Passaddhisambojjhaṅga. Việc tu tập, làm cho tăng trưởng nhiều lần với tác ý khéo léo đối với các dưỡng chất Thân khinh an và Tâm khinh an ấy chính là Passaddhisambojjhaṅga.

6. Các dưỡng chất của Samādhisambojjhaṅga (Định Giác Chi) là:

Thiền chỉ (Samatha) và các Thiền tướng (Samathanimitta – đề mục thiền định) là các dưỡng chất của Samādhisambojjhaṅga. Việc tu tập, làm cho tăng trưởng nhiều lần với tác ý khéo léo đối với các dưỡng chất ấy chính là Samādhisambojjhaṅga.

7. Các dưỡng chất của Upekkhāsambojjhaṅga (Xả Giác Chi) là:

Các pháp là đối tượng của Xả (Upekkhā) là các dưỡng chất của Upekkhāsambojjhaṅga.

Về bản chất, sự thờ ơ, quân bình (majjhattākāra) một cách trung lập đối với các đối tượng ấy chính là các dưỡng chất của Upekkhā. Việc tu tập, làm cho tăng trưởng nhiều lần với tác ý khéo léo đối với các dưỡng chất ấy chính là Upekkhāsambojjhaṅga.

Các dưỡng chất – chỗ nương tựa – của bảy Giác chi chính là những điều đã được trình bày ở trên.

Nương tựa vào các pháp có bản chất là dưỡng chất ấy, các Giác chi được sanh khởi. Vẫn còn những dưỡng chất khác nữa là chỗ nương tựa của các Giác chi, nhưng vì sợ quá dài nên không trình bày thêm.

Hòa thượng Shwe Hinthar (Shwe Hinthar Sayadaw)

Giáo Pháp của Đức Phật (Mahā Buddha Sāsana)

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web

Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web

Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 20/9/2025