Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 2/8

Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 2/8

[Ý nghĩa Pali của Chánh niệm, Chánh Định, Chánh Kiến, Giải nghĩa về Nghiệp]

https://www.facebook.com/share/p/1C4u4QHkZN/

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬

  • Ledi Sayadaw – Khảo Luận Về Chi Phần Của Đạo – Magganga Dipani – 1/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 2/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 3/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 4/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 5/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 6/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 7/8, Web
  • Ledi Sayadaw – Khảo luận về chi phần của Đạo – Magganga Dipani – 8/8, Web

–––––––––––––––

Bản dịch Việt này của Gemini pro 2.5 ngày 20.9.2025 chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/1FQZps1Lt9/

–––––––––––––––

Magganga Dīpanī của Ledi Sayadaw

Phần (2 / 😎

🌿

Ý nghĩa Pāḷi của 4 Chánh Niệm (Sammāsati)

▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ,

Vedanānupassanā satipaṭṭhānaṃ,

Cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ,

Dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ.

1. Kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ (Thân quán niệm xứ) =

Pháp niệm vững chắc trong việc quán niệm và ghi nhận nơi tập hợp các phần của thân thể như hơi thở ra, hơi thở vào v.v…

2. Vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ (Thọ quán niệm xứ) =

Pháp niệm vững chắc trong việc quán niệm và ghi nhận nơi tập hợp các cảm thọ như lạc, khổ v.v…

3. Cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ (Tâm quán niệm xứ) =

Pháp niệm vững chắc trong việc quán niệm và ghi nhận nơi tập hợp các tâm như tâm có tham, tâm có sân v.v…

4. Dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ (Pháp quán niệm xứ) =

Pháp niệm vững chắc trong việc quán niệm và ghi nhận nơi tập hợp các pháp như tham dục v.v…

.

Ý nghĩa Pāḷi của 4 Chánh Định (Sammāsamādhi)

▬▬▬▬▬▬

Paṭhamajjhānasamādhi, Dutiyajjhānasamādhi,

Tatiyajjhānasamādhi, Catutthajjhānasamādhi.

1. Paṭhamajjhānasamādhi (Sơ thiền định) =

Sơ thiền định là định vững chắc, ổn định, không dao động trong việc quán niệm và ghi nhận trước tiên nơi một đề mục thiền chỉ tịnh như kasina v.v…

2. Dutiyajjhānasamādhi (Nhị thiền định) =

Nhị thiền định là định vững chắc, ổn định, không dao động trong việc quán niệm và ghi nhận lần thứ hai nơi một đề mục thiền chỉ tịnh như kasina v.v…

3. Tatiyajjhānasamādhi (Tam thiền định) =

Tam thiền định là định vững chắc, ổn định, không dao động trong việc quán niệm và ghi nhận lần thứ ba nơi một đề mục thiền chỉ tịnh như kasina v.v…

4. Catutthajjhānasamādhi (Tứ thiền định) =

Tứ thiền định là định vững chắc, ổn định, không dao động trong việc quán niệm và ghi nhận lần thứ tư nơi một đề mục thiền chỉ tịnh như kasina v.v…

[Từ đây trở về sau không cần phải học thuộc lòng, chỉ cần xem xét để làm sáng tỏ trong trí tuệ.]

Kết thúc phần tóm lược 8 Chi Đạo.

…..

Đề Mục 3 Loại Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi)

▬▬▬▬▬▬▬▬

Kammassakatāsammādiṭṭhi, Dasavatthukasammādiṭṭhi, Catusaccasammādiṭṭhi.

Kết thúc phần Đề Mục 3 Loại Chánh Kiến.

––––––

Nghĩa Rộng 3 Loại Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi)

▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Nghĩa Rộng về Kammassakatāsammādiṭṭhi (Chánh kiến về nghiệp là của riêng)

Sabbe sattā kammassakā kammadāyādā kammayonī kammabandhū kammappaṭisaraṇā, yaṃ kammaṃ karissanti kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādā bhavissanti.

1– Giải nghĩa từ Kammassakā

▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Trong câu Pāḷi “Sabbe sattā kammassakā”, ở thế gian hiện tại có các tài sản như voi, ngựa, xe cộ, trâu, bò, ruộng vườn, nhà cửa, vàng, bạc, châu báu v.v…

Những tài sản ấy chỉ có thể được gọi là tài sản của mình trong một khoảnh khắc của cuộc đời này, trước khi chết.

Sau khi chết, những tài sản ấy không đi theo người đó.

Chúng giống như tài sản của người khác mà mình thuê mượn để sử dụng tạm thời trong thế gian.

Ngay cả trong đời này, nếu đến lúc phải hủy hoại, chúng cũng có thể bị hủy hoại trong chốc lát.

Do đó, đối với chúng sanh đang trôi lăn, thay đổi qua các kiếp sống trong vòng luân hồi, những tài sản mà họ gặp gỡ, có được trong từng kiếp sống đó không đi theo họ đến kiếp sống khác nơi họ tái sanh, mà phải ở lại trong chính những kiếp sống ấy, cho nên, thực chất chúng không đáng được gọi là tài sản riêng của chúng sanh.

Vì vậy, Đức Phật đã thuyết rằng: “Sabbe sattā kammassakā” (Tất cả chúng sanh có nghiệp là của riêng).

.

Chỉ có Nghiệp là tài sản riêng

▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Chỉ có các hành vi thuộc thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp mà chúng sanh đã làm mới luôn luôn đi theo trong tự thân của họ, cả trong đời này lẫn đời sau. Chúng không bị hủy hoại bởi các tai họa như hỏa hoạn, lụt lội, trộm cướp v.v…

Do đó, chỉ có các hành vi thuộc thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp mới được gọi là tài sản riêng của chúng sanh. Ý muốn nói rằng, chúng sanh có tài sản chính là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này làm tài sản riêng của mình.

.

Ba loại Nghiệp

▬▬▬

Trong lời dạy này, thân nghiệp (kāyakamma) là hành động nỗ lực thực hiện bằng các bộ phận cơ thể như tay, chân v.v…

Khẩu nghiệp (vacīkamma) là hành động đọc tụng, nói năng bằng miệng, lưỡi.

Ý nghiệp (manokamma) là hành động suy tính trong tâm.

Ba loại thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này trong Phật giáo được gọi là ba nghiệp (kamma).

Tất cả chúng sanh, trừ lúc đang ngủ, còn lại trong các thời điểm ban ngày và ban đêm, họ đều sống với ba nghiệp này. Mọi công việc lớn nhỏ đều được thực hiện bằng ba nghiệp.

Khi đang ngủ, ba nghiệp này lắng dịu.

Ở một xác chết, ba nghiệp đã chấm dứt hoàn toàn.

Đây là cách ba nghiệp phát sinh và tồn tại nơi các chúng sanh, cá nhân như người, thú vật v.v…

Ba nghiệp ấy có hai loại: ba nghiệp tốt và ba nghiệp xấu.

Ba nghiệp tốt lại có hai loại: ba nghiệp được làm vì lợi ích cho đời này, và ba nghiệp được làm vì lợi ích cho các đời sau.

Ba nghiệp xấu cũng có hai loại: ba nghiệp được làm vì lợi ích cho đời này, và ba nghiệp được làm vì lợi ích cho các đời sau.

Trong đó:

1. Pāṇātipāta (Sát sanh) = Một loại hành vi giết hại, hành hạ chúng sanh như người, thú vật.

2. Adinnādāna (Trộm cắp) =

Một loại hành vi trộm cắp, phá hoại tài sản hữu tình, vô tình của người khác.

3. Kāmesumicchācāra (Tà dâm) =

Một loại hành vi tà hạnh trong các dục, xâm phạm vợ của người khác hoặc người đàn ông khác ngoài chồng mình.

4. Musāvāda (Nói dối) =

Một loại hành vi nói lời không đúng sự thật.

5. Pisuṇavācā (Nói đâm thọc) =

Một loại hành vi nói lời chia rẽ giữa hai người.

6. Pharusavācā (Nói lời thô ác) =

Một loại lời nói xúc phạm, mắng chửi người khác.

7. Samphappalāpa (Nói lời vô ích) =

Một loại hành vi nói nhiều lời vô ích.

8. Abhijjhā (Tham lam) =

Một loại tham muốn rằng “mong sao tài sản hữu tình, vô tình của người khác trở thành của ta”.

9. Byāpāda (Sân hận) =

Một loại mong muốn rằng “mong sao mạng sống và thân thể của người khác bị hủy hoại”.

10. Micchādiṭṭhi (Tà kiến) = Một loại tà kiến chấp rằng bố thí không có quả báu v.v…

[Mười loại này được gọi là mười ác hạnh (duccarita).]

.

Hai loại Nghiệp hiện tại (Paccuppanna–kamma)

▬▬▬▬▬▬

Tất cả các loại thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp trong đời này như mưu sinh, làm kinh tế, tìm kiếm trí tuệ, buôn bán, làm nông, làm vườn, làm công chức chính phủ, làm công cho chủ, làm phu khuân vác v.v… mà tránh xa mười ác hạnh này, được gọi là loại nghiệp tốt được làm vì lợi ích cho đời này.

Tất cả các loại thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như mưu sinh, làm kinh tế v.v… mà không tránh xa mười ác hạnh, được gọi là loại nghiệp xấu được làm vì lợi ích cho đời này.

.

Hai loại Nghiệp tương lai (Anāgata–kamma)

▬▬▬▬▬▬▬

Ba nghiệp được làm trong đời này với sự dự liệu cho các đời sau cũng có hai loại: ba nghiệp tốt và ba nghiệp xấu.

Các loại thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như bố thí, giữ gìn giới Uposatha, tu tập thiền định Bhavana, đảnh lễ thờ phượng Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), tỏ lòng tôn kính v.v… mà tránh xa mười ác hạnh, được gọi là loại nghiệp thiện được làm trong đời này với sự dự liệu cho các đời sau. Đây là loại nghiệp được làm để đạt đến cảnh giới tốt, kiếp sống tốt trong các đời sau.

Bất kỳ loại ác hạnh nào trong mười ác hạnh, dù được làm vì lợi ích đời này hay vì lợi ích các đời sau, nếu là loại nghiệp có thể đưa xuống địa ngục khổ cảnh trong đời sau, thì đều được gọi là loại nghiệp xấu được làm vì lợi ích đời sau.

Cần phải phân chia, phân biệt loại nghiệp tốt và loại nghiệp xấu như vậy.

Hãy chiêm nghiệm toàn bộ các hành vi của ba nghiệp đang diễn ra một cách ồn ào, náo nhiệt trên khắp các đảo lớn, đảo nhỏ, trên toàn cõi đất liền, toàn cõi nước, toàn cõi không gian.

Khi đã thấy và biết được ba nghiệp đang diễn ra một cách ồn ào, náo nhiệt trong thế giới hiện hữu rõ ràng này, thì cũng nên biết và thấy được toàn bộ các hành vi của ba nghiệp của tất cả chúng sanh trên cạn, dưới nước và trên không trung đang diễn ra ồn ào, náo nhiệt trong vô số các thế giới quá khứ đã qua, không có bắt đầu và kết thúc, cũng như trong các thế giới vị lai sẽ liên tục xuất hiện mới mẻ trong tương lai.

Giống như trong thế giới này, ở phương Đông cũng có vô số thế giới; ở phương Tây cũng có vô số; ở phương Nam cũng có vô số; ở phương Bắc cũng có vô số.

Trong vô số thế giới vô tận ấy, hãy chiêm nghiệm các hành vi của ba nghiệp của chúng sanh trên cạn, dưới nước, và trên không trung.

.

Chỉ có Nghiệp là tài sản riêng

▬▬▬▬▬▬

Khi đã chiêm nghiệm hết thảy, tất cả chúng sanh đều phải sống lâu dài bằng ba nghiệp phát sinh từ chính thân thể của họ, nhận được sự an lạc hạnh phúc nhờ ba nghiệp. Làm ba nghiệp tốt thì nhận được các loại quả tốt, hạnh phúc. Làm ba nghiệp xấu thì nhận được các loại quả xấu, khổ đau.

Chỉ có ba nghiệp mới là tài sản bên trong đích thực của chúng sanh.

Nó là tài sản vĩnh cửu đích thực, không thể bị hủy hoại bởi hỏa hoạn, lụt lội, trộm cướp.

Dù không có một đồng tài sản nào khác, nhưng nếu có ý nghiệp là trí tuệ và sự khéo léo, người đó vẫn có thể mưu cầu được sự an lạc.

Các loài thú dưới nước, trên cạn, và bay trên trời đều phải sống lâu dài chỉ bằng ba nghiệp.

Do đó, Đức Phật đã thuyết giảng rằng “Sabbe sattā kammassakā”.

.

Cách Nghiệp hiện tại cho quả

▬▬▬▬▬▬▬

Những người mong muốn có được sự an lạc và lợi ích tốt đẹp trong đời này như tài sản dồi dào, có được vinh quang và quyền lực, nếu họ nỗ lực hoàn thiện các loại trí tuệ và sự khéo léo, họ có thể đạt được những lợi ích và an lạc đó.

Không có chuyện đạt được những lợi ích và an lạc tốt đẹp như vậy bằng cách chỉ tin tưởng và thờ lạy một vị Thượng Đế vĩnh cửu mà không nỗ lực trong các loại trí tuệ và sự khéo léo.

Nếu có thể đạt được những lợi ích và an lạc tốt đẹp như vậy bằng cách tin tưởng và thờ lạy một vị Thượng Đế vĩnh cửu, thì những dân tộc tin vào Thượng Đế vĩnh cửu sẽ không cần phải thực hiện các thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như buôn bán, làm nông, học hỏi và rèn luyện trí tuệ và sự khéo léo, mà chỉ cần làm một việc duy nhất là thờ lạy Thượng Đế vĩnh cửu.

Nhưng thực tế không phải vậy; giống như các dân tộc theo Phật giáo, các dân tộc theo Kitô giáo, Hồi giáo, Công giáo cũng thực hiện và nỗ lực trong các thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như buôn bán, làm nông, học hỏi và rèn luyện trí tuệ và sự khéo léo.

Do đó, có thể thấy và tin rằng những dân tộc đó đạt được các lợi ích và an lạc tốt đẹp trong đời này như có tài sản dồi dào, có vinh quang và quyền lực, không phải do Thượng Đế vĩnh cửu ban cho, mà chỉ do nghiệp hiện tại của chính họ, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, ban cho.

Kết thúc chương giải thích về nghiệp hiện tại.

––

Cách Nghiệp quá khứ cho quả

▬▬▬▬▬▬▬

Cũng như có thể tin một cách xác thực rằng các lợi ích và an lạc tốt đẹp trong đời này như tài sản dồi dào, vinh quang và quyền lực không phải do Thượng Đế vĩnh cửu ban cho mà chỉ có thể đạt được nhờ nghiệp là sự khéo léo do chính mình tạo ra, thì cũng nên thấy và tin rằng các lợi ích và an lạc tốt đẹp trong các kiếp sau khi chết, như được tái sanh làm người trong dòng dõi triệu phú, tỷ phú giàu có, hoặc được tái sanh làm chư thiên tốt, Đế Thích tốt, cũng không phải do thờ phượng, đảnh lễ Thượng Đế vĩnh cửu rồi được Thượng Đế ban cho.

Nên thấy và tin rằng chúng chỉ có thể đạt được nhờ vào nghiệp quá khứ của chính mình, như các hành vi bố thí, giữ giới v.v… mà mình đã làm trong các kiếp quá khứ.

Người được nghiệp quá khứ đưa đến tái sanh trong một dòng dõi giàu có, thì tất cả tài sản có trong dòng dõi đó đều trở thành tài sản của người ấy.

Tổng số tài sản đó được gọi là do nghiệp quá khứ của người ấy ban cho.

.

Ví dụ về cây cối

▬▬▬▬▬

Về vấn đề này, hãy đưa ra một ví dụ về cây cối.

Trong sự nối tiếp của cây cối, theo cách nói thông thường của thế gian, người ta nói rằng nó sinh ra từ hạt giống.

Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), người ta nói rằng nó sinh ra từ một loại đặc biệt của Hỏa đại (Tejodhātu) gọi là Utu (nhiệt độ).

Hạt giống chính là một khối tập hợp của yếu tố Hỏa.

Yếu tố Hỏa đó mới chính là hạt giống thực sự.

Vào thời kỳ đầu của thế giới, khi chưa có hạt giống, cây cối sinh ra từ yếu tố Hỏa đặc biệt gọi là Utu đó.

Sau đó, từ những cây cối đó, các loại quả và hạt giống sinh ra.

Từ những hạt giống đó, các thế hệ cây cối nối tiếp nhau sinh ra.

Tương tự như vậy, nơi các chúng sanh như người, thú vật cũng có nghiệp tốt như bố thí, giữ giới v.v… và nghiệp xấu như giết hại mạng sống của chúng sanh khác v.v…

Những nghiệp đó chính là những hạt giống.

Do những hạt giống nghiệp đã phát sinh trong tự thân của mình trong các thế giới và kiếp sống quá khứ, mà các thế hệ chúng sanh nối tiếp nhau như người, thú vật v.v… được sinh ra trong các thế giới và kiếp sống tương lai.

Từ những hạt giống nghiệp tốt như bố thí, giữ giới, các kiếp sống tốt đẹp như cõi người, cõi trời được sinh ra.

Từ những hạt giống nghiệp xấu như giết hại mạng sống của chúng sanh khác, các kiếp sống xấu xa như địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a–tu–la được sinh ra.

Từ những cây cũ, các loại quả và hạt giống sinh ra. Từ những quả và hạt giống đó, những cây mới sinh ra. Cứ như vậy, từ cây sinh ra hạt giống, từ hạt giống sinh ra cây, sự sinh trưởng diễn ra liên tục.

Tương tự như vậy,

nơi chúng sanh, từ các kiếp sống cũ trong quá khứ, các hạt giống nghiệp sinh ra.

Từ những hạt giống nghiệp đó, những “cây” kiếp sống mới sinh ra.

Cứ như vậy, từ chúng sanh sinh ra hạt giống nghiệp, từ hạt giống nghiệp sinh ra chúng sanh, sự sinh trưởng diễn ra liên tục.

Cây cối chỉ có một tự thân là sắc pháp.

Do đó, một cây có thể ra nhiều quả, và từ những quả đó, nhiều cây mới có thể sinh ra.

.

Hai loại dòng tương tục (Santāna)

▬▬▬▬▬

Chúng sanh có hai loại dòng tương tục: dòng tương tục sắc pháp (rūpa santāna) và dòng tương tục danh pháp (nāma santāna). Trong hai loại đó, dòng tương tục danh pháp là chính.

Từ một dòng tương tục danh pháp chỉ có thể sinh ra một dòng tương tục danh pháp.

Do đó, mặc dù trong một kiếp sống, chúng sanh có thể tạo ra nhiều hạt giống nghiệp tốt và nhiều hạt giống nghiệp xấu, nhưng từ một dòng tương tục danh pháp cũ, trong kiếp sau chỉ có thể sinh ra một dòng tương tục danh pháp mới.

Từ một dòng tương tục danh pháp cũ, không thể sinh ra nhiều dòng tương tục danh pháp mới trong kiếp sau.

Vì không có việc sinh ra nhiều dòng tương tục danh pháp mới, nên đối với các cá nhân chúng sanh, từ một dòng tương tục sắc pháp cũ, trong kiếp sau cũng chỉ có thể sinh ra một dòng tương tục sắc pháp mới.

Không có việc sinh ra nhiều dòng tương tục sắc pháp.

Như vậy, bắt đầu từ đất, nước, rừng, núi, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các vì sao lớn nhỏ, tất cả các cấu trúc của thế giới đều sinh ra từ những hạt giống là các loại Hỏa đại (Tejo) được gọi là Utu.

Chúng không phải do một Thượng Đế vĩnh cửu tạo ra.

Tất cả chúng sanh như người, thú vật v.v… cũng từ những hạt giống là nghiệp do chính mình đã làm trong các thế giới và kiếp sống quá khứ mà sinh ra mới mẻ trong các kiếp sống tương lai.

Sự hiểu biết và tin tưởng rằng chúng không phải do một Thượng Đế vĩnh cửu tạo ra được gọi là Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi).

Sự hiểu biết và tin tưởng rằng chúng do một Thượng Đế vĩnh cửu tạo ra được gọi là Tà Kiến (Micchādiṭṭhi).

Đó chỉ là một quan điểm sai lầm được suy diễn và phỏng đoán do không có trí tuệ có thể thấy được một cách đầy đủ và trọn vẹn năng lực thực sự của Utu và Nghiệp (Kamma).

Do đó, để từ bỏ quan điểm sai lầm đó và để khuyến khích sự nỗ lực, cố gắng dựa vào trí tuệ, sự hiểu biết và nghiệp pháp, Đức Phật đã thuyết giảng rằng “Sabbe sattā kammassakā”.

Kết thúc phần giải nghĩa từ Sabbe sattā kammassakā.

Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw Đệ Nhất

Magganga Dīpanī – Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw Đệ Nhất

(Nguồn: Dhammaguṇayī Ashin Vimala)

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 19/9/2025