Hình ảnh trong tâm có phải là upādānakkhandha (thủ uẩn) không
Hình ảnh trong tâm có phải là upādānakkhandha (thủ uẩn) không?
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=10230948064190479&id=1394710113&mibextid=Nif5oz

–––––––––––––––
Bản dịch Việt này của Gemini pro 2.5 ngày 17. 9.2025 chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/1MDvY2zjdR/
–––––––––––––––
Hình ảnh trong tâm có phải là upādānakkhandha (thủ uẩn) không?
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Thiền sư: Này, trong các pháp chân đế (paramattha dhamma), ta sẽ trình bày biểu đồ sau khi loại trừ Niết–bàn.
28 Sắc + 12 Tâm bất thiện + 18 Tâm vô nhân + 8 Đại thiện tâm + 8 Tâm duy tác + 8 Tâm quả + 5 Thiện tâm sắc giới + 5 Tâm duy tác + 5 Tâm quả + 4 Thiện tâm vô sắc giới + 4 Tâm duy tác + 4 Tâm quả + 4 Tâm Đạo + 4 Tâm Quả (siêu thế) = Khandha (uẩn)
Này, trong biểu đồ này, tổng hợp của 28 sắc và 89 tâm được gọi là gì?
Thiền sinh: Thưa Ngài, được gọi là “khandha” (uẩn).
Thiền sư: 4 Tâm Đạo, 4 Tâm Quả (siêu thế) có thể được lấy làm đối tượng bởi “taṇhā” (ái), “diṭṭhi” (kiến) không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, không thể ạ.
Thiền sư: 81 tâm còn lại và 28 sắc có thể được lấy làm đối tượng bởi “taṇhā” (ái), “diṭṭhi” (kiến) không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, có thể ạ.
Thiền sư: Tốt. Vậy thì, hãy thử lập lại biểu đồ sau khi loại bỏ 4 Tâm Đạo và 4 Tâm Quả (siêu thế).
28 Sắc + 12 Tâm bất thiện + 18 Tâm vô nhân + 8 Đại thiện tâm + 8 Tâm duy tác + 8 Tâm quả + 5 Thiện tâm sắc giới + 5 Tâm duy tác + 5 Tâm quả + 4 Thiện tâm vô sắc giới + 4 Tâm duy tác + 4 Tâm quả = Upādānakkhandha (thủ uẩn)
Hãy gọi 81 tâm còn lại và 28 sắc là “upādānakkhandha” (thủ uẩn). Khi gọi như vậy, con có thấy rằng có một cái là “khandha” (uẩn) và một cái là “upādānakkhandha” (thủ uẩn), thành ra có hai bộ “khandha” (uẩn) không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, không ạ. Mặc dù 4 Tâm Đạo và 4 Tâm Quả (siêu thế) đã được loại ra khỏi “khandha” (uẩn), nhưng các tâm và sắc còn lại vẫn chính là chúng thôi ạ.
Thiền sư: Khi cấu thành “khandha” (uẩn), có bao gồm cái gọi là hình ảnh không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, không có ạ.
Thiền sư: Khi cấu thành “upādānakkhandha” (thủ uẩn), cũng có bao gồm cái gọi là hình ảnh không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, không có ạ.
Thiền sư: Nếu là pháp chân đế (paramattha) thì có đặc tính (lakkhaṇa) gì?
Thiền sinh: Thưa Ngài, có “saṅkhatalakkhaṇa” (đặc tính hữu vi) là sinh, trụ, diệt ạ.
Thiền sư: Tốt. Cái gọi là hình ảnh chỉ là cái bóng xuất hiện dựa trên sự bám víu vào pháp chân đế (paramattha), do đó nó không có “đặc tính” (lakkhaṇa) gì cả. Vì không có đặc tính nào nên không thể cấu thành bất kỳ “khandha” (uẩn) nào. Vì không thể cấu thành bất kỳ uẩn nào nên nó không phải là đối tượng của “Vipassanā” (minh sát).
Niết–bàn không phải là pháp sinh khởi, mà là pháp hiện hữu, do đó không có “saṅkhatalakkhaṇa” (đặc tính hữu vi). Nó chỉ là “asaṅkhata” (pháp vô vi). Vì vậy, Niết–bàn cũng không thể được cấu thành uẩn.
Thiền sinh: Thưa Ngài, con đã hiểu. Pháp chế định (paññatti) và Niết–bàn không thể cấu thành uẩn, do đó không thể tu tập Vipassanā (minh sát) trên chúng được.
Thiền sư: Tất cả các uẩn nào là đối tượng bị bám víu bởi “taṇhā” (ái), “diṭṭhi” (kiến) thì được gọi là “upādānakkhandha” (thủ uẩn). Bất kể có bị sự chấp thủ (upādāna) bám víu hay không, ngoại trừ Niết–bàn là pháp không thể cấu thành uẩn, tất cả các pháp “paramattha” (chân đế) có thể cấu thành uẩn đều được gọi là “khandha” (uẩn). Chúng ta đã phân biệt được điều đó.
Do đó, không phải có “khandha” (uẩn) riêng và “upādānakkhandha” (thủ uẩn) riêng, mà “upādānakkhandha” (thủ uẩn) thực chất là cách gọi để phân biệt ra những phần trong “khandha” (uẩn) có thể bị lấy làm đối tượng bởi “taṇhā, diṭṭhi” (ái, kiến).
Vì điều này đã rõ ràng, nên các thiền sinh đã hiểu rằng không có cái gọi là “hai bộ uẩn”. Các vị cũng đã hiểu rõ rằng đối tượng của Vipassanā (minh sát) là “upādānakkhandha” (thủ uẩn). Như vậy thì không còn gì để nhầm lẫn nữa.
Thiền sinh: Thưa Ngài, con đã thông suốt. Ngay từ khi nói là ‘khandha’ (uẩn) thì đó chỉ là các pháp ‘paramattha’ (chân đế), do đó ‘hình ảnh xuất hiện trong tâm’ chỉ là pháp chế định (paññatti) và không thể cấu thành ‘khandha’ (uẩn).
Vì vậy, con cũng đã hiểu rằng ‘hình ảnh không phải là upādānakkhandha (thủ uẩn)’.
Con muốn biết thêm một điều: uẩn của ‘Đức Phật và các vị A–la–hán’ cũng là “upādānakkhandha” (thủ uẩn), điều đó có đúng không ạ?
Thiền sư: Đúng vậy, uẩn của Đức Phật và các vị A–la–hán cũng chính là upādānakkhandha (thủ uẩn). Nơi các Ngài không còn ‘upādāna’ (sự chấp thủ) nên các Ngài không thể chấp thủ chính bản thân mình cũng như không còn chấp thủ người khác.
Tuy nhiên, “taṇhā, diṭṭhi” (ái, kiến) của những người khác vẫn có thể lấy uẩn của Đức Phật và các vị A–la–hán làm đối tượng để chấp thủ. Do đó, uẩn của Đức Phật và các vị A–la–hán cũng chính là “upādānakkhandha” (thủ uẩn).
Hãy xem lại biểu đồ “upādānakkhandha” (thủ uẩn).
28 Sắc + (12 Tâm bất thiện) + 18 Tâm vô nhân + (8 Đại thiện tâm) + 8 Tâm duy tác + 8 Tâm quả + (5 Thiện tâm sắc giới) + 5 Tâm duy tác + 5 Tâm quả + (4 Thiện tâm vô sắc giới) + 4 Tâm duy tác + 4 Tâm quả = Upādānakkhandha (thủ uẩn)
Các tâm như 12 tâm bất thiện, 8 đại thiện tâm, 5 thiện tâm sắc giới, 4 thiện tâm vô sắc giới không còn sinh khởi nơi Đức Phật và các vị A–la–hán.
Do đó, hãy thử lập lại biểu đồ sau khi loại bỏ những tâm này.
28 Sắc + 18 Tâm vô nhân + 8 Đại tâm duy tác + 8 Tâm quả + 5 Tâm duy tác sắc giới + 5 Tâm quả + 4 Tâm duy tác vô sắc giới + 4 Tâm quả = Upādānakkhandha (thủ uẩn)
Này, upādānakkhandha (thủ uẩn) có bị hủy hoại không?
Thiền sinh: Thưa Ngài, không bị hủy hoại ạ.
Thiền sư: “Này hiền giả Sāriputta, bậc A–la–hán đã tác ý một cách như lý đối với những pháp nào?
Này hiền giả Koṭṭhika, bậc A–la–hán cũng đã tác ý một cách như lý đối với năm upādānakkhandha (thủ uẩn) này là vô thường, là khổ, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là sự mệt nhọc, là sự đau đớn, là ngoại vật, là pháp phải hoại diệt, là pháp trống không, là pháp vô ngã.” (Trích kinh Sīlavanta Sutta)
Khi Đức Phật và các vị A–la–hán nhập các thiền chứng (samāpatti) tương ứng, các Ngài cũng phải quay lại quán chiếu chính bản chất vô thường, khổ, vô ngã của năm “upādānakkhandha” (thủ uẩn) để nhập định.
Thiền sinh: Thưa Ngài, chúng con tu tập Vipassanā (minh sát) để không phát sinh chấp thủ (upādāna) đối với các đối tượng có thể gây ra chấp thủ, hầu có thể diệt trừ phiền não bằng trí tuệ thấy đúng sự thật.
Còn Đức Phật và các vị A–la–hán đã tận diệt phiền não rồi, các Ngài tu tập Vipassanā (minh sát) vì lợi ích gì ạ?
Thiền sư: “Này hiền giả, đối với bậc A–la–hán, không còn bất kỳ phận sự nào của vị Tỷ–kheo phải làm thêm nữa, cũng không cần phải tu tập thêm pháp đã được thực hành rồi. Tuy nhiên, những pháp này được tu tập, được thực hành nhiều lần thì sẽ đưa đến lợi ích là sự an trú lạc trong hiện tại và vì lợi ích của niệm (sati), tỉnh giác (sampajañña).” (Trích kinh Sīlavanta Sutta)
Trong kinh Sīlavanta Sutta, khi trả lời câu hỏi của Tôn giả Mahākoṭṭhika, Tôn giả Sāriputta đã giải thích rằng từ phàm phu (puthujjana) cho đến bậc A–la–hán đều phải tu tập Vipassanā (minh sát) trên năm upādānakkhandha (thủ uẩn), đồng thời cũng giải thích luôn lý do tại sao bậc A–la–hán đã tận diệt phiền não rồi mà vẫn tu tập Vipassanā (minh sát) trên “upādānakkhandha” (thủ uẩn).
Thiền sinh: Thưa Ngài, con đã hiểu. Các vị A–la–hán đã thanh tịnh phiền não, khi các Ngài phải hướng tâm đến các đối tượng thế gian, dù không khởi lên sân hận như chúng con, nhưng con nghĩ rằng ít nhiều cũng có sự mệt mỏi trong tâm. Chắc hẳn không được an lạc bằng khi hướng tâm đến Niết–bàn phải không ạ?
Thiền sư: Người sở hữu tài sản thế gian, hễ có thời gian là sẽ hưởng thụ tài sản mà mình có.
Những bậc sở hữu ‘santisukha’ (sự an lạc tịch tịnh), một sự an lạc không thể so sánh với tài sản thế gian, thì các Ngài cũng sẽ an trú và hưởng thụ sự an lạc tịch tịnh mà các Ngài sở hữu chứ.
Thiền sinh: Thưa Ngài, tại sao người ta lại nói sai lạc rằng hình ảnh chế định là upādānakkhandha (thủ uẩn) ạ?
Thiền sư: Ngày mai ta sẽ trả lời.
Ashin Paññāsiri (Rammākyun)
Nguồn tham khảo: https://www.facebook.com/share/p/1B7HGL54UM/
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
