Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã

Bài 30: Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã

https://www.facebook.com/share/p/1BB5CZ9ZP8/

–––––––––––––––

🔹 Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy vô thường

–––––––––––––––

Ðiều chánh yếu là thật sự bất mãn và mệt mỏi nhàm chán. Chỉ khi hành giả thật sự chán nản với tình trạng đau khổ và bấp bênh của đời sống mới mạnh mẽ phát triển ý muốn tách rời, thoát ra khỏi, xa lìa nó, và do đó mới phát tâm chuyên cần cố gắng để buông bỏ.

Chỉ đến chừng đó tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa) sẽ phát hiện và tuệ minh sát phát triển đầy đủ, và hành giả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbāna) qua Ðạo Tuệ và Quả Tuệ, trở thành Nhập Lưu, Nhứt Lai, Bất Lai hay một vị A La Hán.

Như vậy điều quan trọng chánh yếu là phải tận lực tinh tấn trau giồi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản.

Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư dạy:

Sabbe saṅkhāra aniccā’ti

yadā paññaya passati

atha nibbindati dukhe

esa maggo visuddhiyā.

Tất cả các hành (tức các pháp hữu vi, saṅkhāra, hay các pháp được cấu tạo), do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực tạo duyên, là vô thường. Khi đã thấu triệt chân lý ấy qua vipassanā ñāṇa (tuệ minh sát) ta càng bất mãn và mệt mỏi chán ghét tất cả những khổ đau ấy (của tất cả sắc pháp và danh pháp). Tâm bất toại nguyện và chán nản ấy thật sự là con đường chân chánh của trạng thái trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo) dẫn đến Niết Bàn, vượt thoát ra khỏi mọi ô nhiễm và đau khổ.

Vị hành giả đã ghi nhận mỗi khi thấy, nghe, nếm, sờ đụng và suy tư khi nó vừa sanh khởi, nhận thức rằng đó chỉ là những hiện tượng nhanh chóng phát sanh và hoại diệt.

Do đó vị này hiểu biết đúng thực tướng của sự vật – tất cả đều vô thường.

Với tuệ giác thông hiểu tận tường đặc tướng vô thường hành giả chứng ngộ rằng không có chi là vui thú và thỏa thích trong thân và tâm hiện tại này;

những trạng thái thân và tâm trong tương lai cũng cùng một bản chất như vậy, sẽ không có chi đáng vui thích và hoan hỷ trong đó.

Do đó hành giả phát sanh tâm nhàm chán và mệt mỏi với tất cả mọi sắc pháp và danh pháp, và hết lòng muốn thoát ra khỏi thân và tâm này, tận lực chuyên cần hành thiền nhắm đến giải thoát.

Do đó saṅkhārupekkha ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và hành giả chứng ngộ Niết Bàn, Nibbāna, qua Thánh Ðạo.

Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn dạy rằng tuệ minh sát nhìn thấy chỉ có bất toại nguyện và chán chê là con đường thật sự đến Niết Bàn.

🔹 Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Khổ

–––––––––––––––

Sabbe saṅkhāra dukkhā’ti

yadā paññāya passati

atha nibbindati dukhe

esa maggo visuddhiyā.

Tất cả các hành (saṅkhāra, tức các pháp hữu vi), được tạo duyên do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực là khổ. Khi thông hiểu được chân lý này…

Một vị đạo sư đã phiên dịch danh từ “saṅkhāra” trong câu này là “tác ý” (cetanā), tức là nguyên nhân tạo nghiệp, thiện hay bất thiện.

Như vậy theo vị này: “Những hành động tạo thiện nghiệp như bố thí, trì giới, tất cả đều là saṅkhāra, hành, và do đó là khổ. Cùng thế ấy thực hành thiền vắng lặng hay thiền minh sát cũng là saṅkhāra, hành. Tất cả các hành ấy đều tạo nghiệp đau khổ.

Muốn thành đạt trạng thái vắng lặng Niết Bàn (Nibbāna), không nên có bất luận hành động nào. Hãy giữ tâm như nguyên khởi nó là vậy.”

Nói như thế ấy, vị sư này giảng sai lệch đi giáo huấn của Ðức Phật để được thích hợp với mục tiêu của mình và của hàng đệ tử đã chấp nhận quan kiến của mình, và như thế, quảng bá một giáo huấn sai lầm.

Trong thực tế, danh từ “saṅkhāra”, hành, trong câu này không có nghĩa là hành động tạo thiện hay bất thiện nghiệp có tác ý (kusala, akusala saṅkhāra) phát sanh do vô minh.

Nơi đây saṅkhāra, hành, giản dị có nghĩa là danh pháp và sắc pháp phát sanh do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực.

Một lần nữa, danh pháp và sắc pháp ở đây không bao gồm những thức của Ðạo và Quả siêu thế, hoặc những tâm sở làm đối tượng cho thiền minh sát (vipassanā bhāvanā).

Chỉ có những hình thức tại thế của danh pháp và sắc pháp được đề cập đến ở đây.

Danh từ “saṅkhāra” ở câu trước cũng phải được hiểu cùng một thế ấy. Như vậy, tất cả những danh pháp và sắc pháp, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ đụng và suy tư đều không ngừng nhanh chóng sanh khởi và hoại diệt và do đó, là vô thường.

Bởi vì là vô thường, luôn luôn chuyển biến, nên nó là đau khổ. Ðó là ý nghĩa nên được hiểu ở đây.

“Tất cả các hành (tức các pháp hữu vi, hay các pháp được cấu tạo) phát sanh do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực đều đau khổ. Khi do tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta trở thành bất mãn và nhàm chán mệt mỏi với tất cả đau khổ ấy.

Bất toại nguyện và chán nản này thật sự là con đường trong sạch chân chánh (Thanh Tịnh Ðạo), dẫn đến Niết Bàn (Nibbāna) vượt thoát ra khỏi mọi ô nhiễm và khổ đau.”

Hành giả nhận thức rằng tất cả những danh pháp và sắc pháp phát hiện vào lúc hay biết cảm thọ phải nhanh chóng tan rã, và do đó là vô thường.

Bởi vì nó vô thường nên phải chịu luôn luôn tan rã, người hành thiền nhận thức rằng nó là đáng kinh sợ và là một nguồn đau khổ.

Ðối với vài vị hành giả, những cảm giác khó chịu như gồng cứng, nóng, đau nhức và ngứa ngái không ngừng phát sanh ở nhiều nơi khác nhau trong thân. Mỗi khi những cảm giác ấy phát sanh thì hành giả ghi nhận, và do đó nhận chân rõ ràng toàn thể châu thân là một khối đau khổ.

Ðiều này hợp với lời dạy dukkha maddhakkhi sallato: tuệ minh sát, vipassanā ñāṇa, nhận thấy thân này như một khối đau khổ vì bị gai góc hay mũi nhọn đâm chích.

Một câu hỏi có thể nêu lên, “Có chăng khác biệt nào giữa những khổ đau mà người thường kinh nghiệm và khổ đau mà người có hành thiền kinh nghiệm?”

Sự khác biệt là khi cảm nghe đau nhức thì người thường thấy là, “cơn đau của tôi, tôi đang đau khổ”, nhưng vị hành giả hiểu biết thọ khổ mà không dính mắc, vị ấy nhận thức rằng đó chỉ là những hiện tượng khởi sanh và tức khắc hoại diệt. Ðây là vipassanā ñāṇa, một đối tượng của tuệ minh sát, không chấp vào một cái ta.

Dầu nhận thức rằng đó là đau khổ vì đặc tướng vô thường của nó, hay xem đó là một khối khổ đau không thể chịu đựng, không có thỏa thích nào trong các hành, chỉ có nhàm chán.

Có tình trạng bất toại nguyện và mệt mỏi chán chê đối với danh pháp và sắc pháp trong hiện tại và vị lai, một tình trạng hoàn toàn chán ghét đối với tất cả danh pháp và sắc pháp.

Ðó là sự phát triển của nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Khi tuệ giác (ñāṇa) phát triển ắt có ý muốn tách rời, xa lìa khỏi danh pháp và sắc pháp, muốn thoát ly ra khỏi đó. Hành giả tiếp tục công phu thực hành thiền tập nhằm vượt đến tình trạng giải thoát ấy.

Liên tục chuyên cần tinh tấn như thế, đến một lúc saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành sanh khởi và hành giả chứng ngộ Niết Bàn qua Ðạo Tuệ và Quả Tuệ.

Do đó Ðức Thế Tôn mô tả tuệ giác xem tất cả các hành (saṅkhāra) là khổ, là đối tượng của sự chán nản, là Con Ðường Niết Bàn.

Cùng một thế ấy Ðức Thế Tôn dạy quán chiếu như thế nào để nhận thức rằng các hành là vô ngã và chán chê muốn tách rời ra khỏi đó.

🔹 Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Vô Ngã

–––––––––––––––

Sabbe dhammā anattā’ti

yadā paññaya passati

atha nibbindati dukkhe

esa maggo visuddhiyā.

Danh từ dhamma trong câu này cũng cùng một ý nghĩa với chữ saṅkhāra của hai câu trước, là danh pháp và sắc pháp, theo nhận thức của tuệ minh sát. Anattā (vô ngã) là dhamma (pháp), và dhamma là những hiện tượng, như vậy cũng là anattā.

Nơi đây danh từ dhamma được dùng nhằm làm tỏ rạng hơn ý nghĩa vô ngã của saṅkhāra.

Ðó là lối giải thích của Bản Chú Giải, và chúng tôi tin rằng giải thích như vậy là thích nghi và có thể chấp nhận.

Nhưng cũng có những quan điểm khác chủ trương rằng danh từ dhamma cố ý được xử dụng ở đây để bao gồm Ðạo và Quả siêu thế và luôn cả những pháp vô lậu, Niết Bàn, Nibbāna. Chúng tôi nghĩ rằng lối diễn dịch này không vững lắm.

Người thường nhận thấy rằng saṅkhāra, hành, như sự thấy và sự nghe là thường còn và lạc, trong khi người hành thiền thấy là vô thường và khổ.

Cùng thế ấy, cái mà người thường xem là tự ngã, cũng danh và sắc tại thế ấy, vị hành giả thấy là vô ngã, anattā.

Người hành thiền không cần và cũng không thể ghi nhận (niệm) những sự vật siêu thế. Những vật vô lậu ấy không thể là đối tượng suy niệm cho người tại thế và những người này không thể bám vào những đối tượng ấy.

Như vậy phải nhận định rằng dhamma ở đây chỉ là saṅkhāra tại thế, tức danh và sắc, vốn có thể làm đề mục quán chiếu của thiền minh sát (vipassanā bhāvanā).

“Tất cả những sắc pháp và danh pháp tại thế, như sự thấy và sự nghe, không phải là tự ngã, không phải thực thể sống. Xuyên qua thiền minh sát, khi đến tầng tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta thấu triệt chân lý này, và càng bất mãn, chán chê tất cả những đau khổ này. Chán ghét là con đường chân chánh thật sự dẫn đến trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo) Niết Bàn, vượt thoát khỏi mọi ô nhiễm và khổ đau.”

Bởi vì người thường chấp sắc pháp và danh pháp là tự ngã, thực thể sống, nên họ hoan hỷ thỏa thích trong đó và cảm nghe hạnh phúc.

Nhưng vị hành giả chỉ thấy đó là những hiện tượng không ngừng sanh diệt và do vậy nhận thức rằng đó không phải tự ngã.

Như được giải thích trong bài kinh này, bởi vì những hiện tượng ấy có chiều hướng gây đau khổ nên được thấy không phải là tự ngã và ta không thể điều khiển hay kiểm soát theo ý mình. Như vậy người hành thiền không còn thỏa thích hay hoan hỷ trong danh và sắc pháp.

Ý muốn tách rời, thoát ra khỏi những danh pháp và sắc pháp ấy, phát sanh đến hành giả. Vị này tiếp tục chuyên cần hành thiền nhằm thành tựu mục tiêu giải thoát ra khỏi danh và sắc pháp ấy.

Ðúng lúc, saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và hành giả chứng ngộ Niết Bàn do Ðạo Tuệ.

Do đó Ðức Thế Tôn mô tả tuệ minh sát, xem tất cả sắc pháp và danh pháp là vô ngã, và dẫn đến tình trạng nhàm chán mệt mỏi với sắc pháp và danh pháp ấy, là Con Ðường Niết Bàn.

Như vậy phải thận trọng ghi chú ba câu kệ trên. Cho đến khi, bằng kinh nghiệm của chính mình, hành giả nhận thấy rằng các hành, saṅkhāra, tức danh pháp và sắc pháp, luôn luôn nhanh chóng sanh diệt, tuệ minh sát thật sự mới phát triển đầy đủ để thấy vô thường, khổ và vô ngã.

Và nếu không thật sự chứng nghiệm vô thường, khổ, vô ngã, nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, nhàm chán những đau khổ của danh pháp và sắc pháp, sẽ không phát sanh.

Và không có nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, không thể chứng ngộ Niết Bàn.

Chỉ khi tự mình chứng nghiệm bản chất vô thường, khổ và vô ngã của các hành, saṅkhāra, tâm nhàm chán mệt mỏi mới phát triển, và nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, khởi hiện.

Chỉ khi tiến đạt đến nibbidā ñāṇa này Ðạo Tuệ, Quả Tuệ và sau đó là Niết Bàn, sẽ đến.

Vì lẽ ấy trong bài kinh Ðức Thế Tôn tuyên ngôn: Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako, rūpasmiṁpi nibbindati…:

“Này chư tỳ khưu, vị Thánh Ðệ Tử thấy như thế (tức thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức ‘không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta’) càng phát tâm nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, tưởng, hành, thức.”

Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw

Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về Kinh Vô ngã tướng, Web

Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web

Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã, Web

Bài 4 – Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã, Web

Bài 5 – Thân Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web

Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web

Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web

Bài 8 – Thọ Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web

Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web

Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web

Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web

Bài 12 – Thức Là Vô Ngã, Web

Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác khi xuất hiện trên thế gian, Web

Bài 14 –Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web

Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web

Bài 16: Ngũ Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Vô Thường Khổ Vô Ngã, Web

Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường, Web Link

Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ, Web

Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web

Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web

Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Hành uẩn, Web

Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn, Web

Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web

Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web

Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web

Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web

Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web

Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web

Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web

Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web

Bài 31: Nibbinda Ñāṇa – Tuệ Nhàm Chán Là Gì? Tu Tập Vun Bồi Như Thế Nào?, Web

Bài 32: Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa), Web

Bài 33: Phát Triển Vuṭṭhānagāminī vipassanā – Tuệ Minh Sát Vượt Lên, Web

Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo, Web

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 17/9/2025