Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt
Bài 29: Làm Thế Nào Thuần Hóa Tuệ Minh Sát Nhờ Quán Niệm Ngũ Uẩn Sinh Diệt?
https://www.facebook.com/share/p/17PPipAV75/

▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Bản chánh kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, được chia làm bốn phần.
Phần đầu đề cập đến lời dạy rằng “năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có chiều hướng gây đau khổ và, bởi vì không thể điều khiển và kiểm soát nó, do đó không có tự ngã hay thể chất bên trong.”
Phần thứ hai đề cập đến câu hỏi: “Năm uẩn là thường còn hay vô thường? Là đau khổ hay hạnh phúc?”, và giải thích rằng: xem cái gì không thường còn, đau khổ và phải biến chuyển là “của tôi” “tôi” “tự ngã của tôi” là không thích nghi.
Trong phần thứ ba, năm uẩn được xếp loại và liệt kê dưới mười một tựa đề và được dạy phải quán niệm xem là “không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi” (vô thường, khổ, vô ngã).
Trong phần thứ tư mà giờ đây chúng ta sắp đề cập đến, Ðức Thế Tôn dạy người hành thiền phải thực hành như thế nào để dần dần, từng giai đoạn, trau giồi tuệ minh sát, và bằng cách nào phát triển nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, đưa đến Ðạo Tuệ và Quả Tuệ và cuối cùng đến giải thoát cùng tột, trở thành bậc A La Hán.
–––––––––––––––
Làm Thế Nào Phát Triển Tuệ Minh Sát?
–––––––––––––––
Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako rūpa–smiṁpi nibbindati vedanāyapi nibbindati saññāyapi nibbindati saṅkhāresupi nibbindati viññāṇasmiṁpi nibbindati.
“Này chư Tỳ Khưu, vị thánh đệ tử đã được thụ huấn, thấy như vậy, nảy sanh tâm chán nản sắc, chán nản thọ, chán nản tưởng, chán nản hành, chán nản thức.”
Bằng cách ấy Ðức Thế Tôn dạy nên phát triển tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, như thế nào.
Trong đoạn kinh trên cụm từ “thấy như vậy” có nghĩa là thấy vô thường, khổ, vô ngã. Người đã thấy như vậy trở thành vị đệ tử đã được thụ huấn, trang bị đầy đủ trí tuệ bằng cả hai phương cách, lắng nghe lời dạy và tự cá nhân kinh nghiệm.
Vị ấy được dạy rằng muốn nhận thấy bản chất vô thường, khổ và vô ngã của năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, thì phải chuyên cần chú niệm, thận trọng ghi nhận tất cả nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức mỗi khi thấy, nghe v.v…
Vị ấy cũng nghe dạy phải suy niệm rằng ngũ uẩn thủ, năm nhóm bám níu, chỉ là danh pháp và sắc pháp, và sự hay biết là (cơ năng, hay nhiệm vụ của) tâm (danh, nāma).
Vị ấy cũng nghe về nhân và quả, về bản chất không ngừng sanh diệt, vô thường và không có thể chất.
Tất cả những điều ấy là kiến thức đã được thâu đạt nhờ học hỏi hoặc nghe thuật lại.
Hành giả đã có được những kiến thức ấy trước khi bắt đầu hành thiền.
Rồi trong khi ghi nhận phồng, xẹp, co vào, duỗi ra, di chuyển, giãn ra, ép vào, sờ đụng biết cứng, thô, mềm, láng, nóng, lạnh và thấy, nghe, ngửi, nếm, và sờ đụng, hành giả nhận thức rằng những đối tượng mà mình ghi nhận là sắc pháp và sự hiểu biết những đối tượng ấy là danh pháp và chỉ có hai: sắc pháp và danh pháp.
Trong khi ghi nhận nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và ý thức hành giả biết rằng thức ấy, tức sự thấy, sự nghe v.v… là danh, và căn môn của thức là sắc, chỉ có hai, danh và sắc ấy. Ðây là kiến thức thâu thập qua kinh nghiệm cá nhân.
Lại nữa, khi có ý muốn co vào, hành giả co; khi có ý muốn duỗi ra, hành giả duỗi; khi có ý muốn đi, hành giả đi. Ghi nhận tất cả những sự kiện ấy, hành giả nhận thức rằng mình co vào vì có ý muốn co vào; mình duỗi ra, hoặc đi vì có ý muốn làm vậy, không có một thực thể sống, một tự ngã, làm cho mình co vào, duỗi ra hay đi, chỉ có nguyên nhân tạo nên hậu quả.
Ðây cũng là kiến thức được thâu thập xuyên qua kinh nghiệm bản thân.
Nếu hành giả không ghi nhận những hiện tượng ấy ắt không thể nhận thấy đúng sự thật. Hành giả phát tâm ưa thích. Từ ưa thích sanh khao khát ước mong. Bởi vì khao khát ước mong nên phải cố gắng thành đạt cho được, do đó tạo nghiệp – thiện nghiệp và bất thiện nghiệp – đưa đến những trở thành (hữu) mới. Bằng cách ấy hành giả thấu hiểu Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc, liên quan đến hiện tượng nhân quả.
Một lần nữa, đối tượng sắc, thọ, tưởng, hành, thức và cái tâm hay biết các đối tượng ấy, cả hai đều liên tục sanh khởi và hoại diệt. Như vậy hành giả hiểu biết đúng lời dạy của Ðức Thế Tôn, rằng những hiện tượng ấy là vô thường, khổ và vô ngã.
Như đã nói ở phần trên, các loại kiến thức khác nhau ấy, bắt đầu từ sự phân biệt danh pháp và sắc pháp, chí đến kiến thức về bản chất vô thường, khổ và vô ngã, tất cả đều được thâu đạt xuyên qua kinh nghiệm bản thân, không phải nhờ học hỏi hay nghe thuật lại.
Chúng ta dám nói rằng trong nhóm quý vị hiện diện trong cử tọa đây phần lớn đã có trang bị đầy đủ những kinh nghiệm cá nhân tương tợ.
Như vậy chúng ta nói rằng người đã có thể nhận thức bản chất vô thường, khổ và vô ngã đúng như thật, qua kinh nghiệm bản thân là người đã được giáo huấn đầy đủ, người đã được trang bị đủ cả hai, kiến thức qua học hỏi và kiến thức qua kinh nghiệm cá nhân, cả pháp học lẫn pháp hành.
Khỏi cần phải nói rằng Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, đã là bậc Nhập Lưu, ắt có trang bị đầy đủ cả hai loại kiến thức, do đó là hàng đệ tử được thụ huấn đầy đủ.
Vị đệ tử của Ðức Thế Tôn đã được thụ huấn đầy đủ như vậy có thể nhận thức, với sự hiểu biết của chính mình, rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết là vô thường, khổ và vô ngã.
Vị hành giả mà nhận thức được như vậy sẽ sớm thành đạt udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, phân biện rõ ràng trạng thái nhanh chóng sanh diệt của sắc pháp và danh pháp.
Theo sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, khi đã thành đạt tuệ giác này hành giả thấy những ánh sáng lạ thường và hào quang, và chứng nghiệm hạnh phúc an lạc chưa từng bao giờ được biết, chứng nghiệm tâm phỉ (pīti) và có tình trạng thanh bình tĩnh lặng.
Hành giả cũng kinh nghiệm trạng thái an khinh, thân tâm nhẹ nhàng thơ thới, dịu dàng và có nhiều nghị lực. Như thế ấy vị hành giả cảm nghe thân tâm hoan hỷ thỏa thích không thể tả.
Tâm chú niệm của vị hành giả toàn hảo đến nỗi có thể nói rằng không có chi mà mình không ghi nhận, trí minh mẫn sáng suốt và bén nhạy làm cho mình có cảm tưởng rằng không có chi mà mình không thể hiểu biết.
Tâm đạo càng tiến triển nhiệt thành, đức tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp và Ðức Tăng càng tăng trưởng mãnh liệt, rõ ràng và sáng tỏ hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên tất cả những hiện tượng lạ thường ấy phải được ghi nhận và buông bỏ, để trôi qua.
Khi không nắm giữ mà buông xả như vậy giai đoạn tuệ này cũng trôi qua và hành giả tiến đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt.
Vào lúc này đề mục thiền và cái tâm hành thiền được thấy tan rã và biến mất từng cặp.
Thí dụ như khi ghi nhận bụng phồng, thấy di động phồng và tâm ghi nhận di động ấy cùng lúc tan biến.
Mỗi di động phồng lên được phân biện tan biến trong từng những giai đoạn biến tan nhỏ riêng biệt, liên tục tiếp nối nhau. Mỗi khi ghi nhận thì hành giả phân biện rõ ràng điều này.
Ðề mục thiền hình như chấm dứt và biến mất trước, liền theo đó tâm ghi nhận đề mục ấy cũng nhanh chóng chấm dứt. Dĩ nhiên đó là những gì thật sự xảy diễn.
Khi một ý tưởng được quán niệm, tâm quán niệm chỉ phát sanh sau khi ý nghĩ ấy biến mất. Ðiều này cũng xảy diễn trong khi ghi nhận những đối tượng khác – sự ghi nhận chỉ đến sau khi đối tượng được ghi nhận đã biến mất.
Nhưng khi tuệ giác phát triển chưa được đầy đủ, ta có cảm tưởng hình như đối tượng được ghi nhận biến tan cùng lúc với tâm hiểu biết.
Ðiều này trùng hợp với lời dạy của bài kinh, rằng chỉ quán niệm khoảnh khắc hiện tại.
Nhận thức tiến trình tan biến liên tục và nhanh chóng xảy diễn như vậy ta hiểu biết rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, và đó là điều đáng kinh sợ. Ðây là tuệ diệt, nhận thấy hiểm họa hay kinh sợ bhaṅga ñāṇa.
Khi thấy sự vật là hiểm nguy, hành giả hiểu biết rằng nó là độc hại và đầy hiểm họa. Ðó là ādinava ñāṇa, tuệ giác nhận thấy hiểm họa trong tất cả những gì không ngừng chuyển biến, luôn luôn trở thành (tức các pháp được cấu tạo, các hành, hay các pháp hữu vi).
Hành giả không còn thấy thích thú trong những danh uẩn và sắc uẩn đáng kinh sợ ấy nữa, thấy đó là đáng ghê tởm và đáng chán. Ðó là nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Ðức Thế Tôn muốn nhắc đến trạng thái tâm này khi Ngài tuyên ngôn rūpasmiṁpi nibbindati: Nó càng chán ghét sắc pháp…”
Trước khi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, này phát triển ta còn khá bằng lòng và vui vẻ thỏa thích với hình sắc của cơ thể hiện thời, và vui vẻ thỏa thích ước mong một thân hình đẹp đẻ xinh tươi trong tương lai ở cảnh người hay cảnh trời.
Ta khao khát trông chờ một thân hình mạnh khoẻ, xinh đẹp ở cảnh người hoặc cảnh trời.
Với sự phát sanh của tuệ giác này ta không còn cảm nghe hạnh phúc, không còn vui vẻ sống trong tình trạng mong chờ.
Cái mà được gọi là hạnh phúc trong cảnh người chỉ là sự kết hợp của sắc pháp và danh pháp luôn luôn nhanh chóng sanh rồi diệt.
Hành giả cũng nhận thức rằng cái mà được gọi là hạnh phúc ở cõi trời cũng cùng thế ấy, là sự kết hợp phù du tạm bợ của sắc và danh pháp mà mình đã chán chê ghét bỏ và mệt mỏi ghê tởm.
Cũng tựa hồ như người chài lưới, bắt nắm trong tay một con rắn độc mà trong khi đó nghĩ rằng nó là con lươn; một khi nhận ra rằng mình chỉ cầm trong tay một con rắn độc, không phải con lươn, thì vội vả muốn vứt bỏ đi càng sớm càng tốt. Hình ảnh thí dụ này đã được mô tả đầy đủ trong bài giảng của Sư về kinh Sīlavanta Sutta.
Lại nữa, trước khi thành đạt tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, hành giả thỏa thích với tất cả những cảm thọ đang hưởng, và mong mỏi sẽ còn được thoả thích hưởng thọ những niềm hạnh phúc của cảnh người và cảnh trời trong những kiếp sống tương lai.
Trong hiện tại vị ấy thỏa thích hồi nhớ những kỷ niệm (tưởng, saññā) êm đềm vui vẻ của thời xưa, và mong mỏi sẽ còn thỏa thích hưởng thọ những kỷ niệm tốt đẹp trong kiếp sống tương lai.
Vị ấy thỏa thích với những tư tưởng và hành động trong hiện tại và những tư tưởng và hành động trong những kiếp sống vị lai. Vài người còn van vái nguyện cầu sẽ được những gì mình muốn làm, sau khi tái sanh vào kiếp tới.
Vài người lợi dưỡng và thỏa thích ước mơ tưởng tượng trong hiện tại, trông chờ sẽ được như thế trong những kiếp sống tương lai.
Nhưng khi tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, phát triển, thấy đúng sự thật là thọ, tưởng, hành và thức mãi mãi nhanh chóng sanh diệt thì đâm ra ghê tởm chán chê.
Cũng như trong hiện tại nó nhanh chóng hoại diệt, dầu ta có tái sanh trong cảnh người hay cảnh trời thì những thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng sẽ không ngừng tan biến. Nhận xét như thế hành giả cảm nghe không còn ham muốn những uẩn ấy nữa và bất mãn với nó.
Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw
Bài 1 – Giới thiệu về bài giảng của Mahasi Sayadaw về Kinh Vô ngã tướng, Web
Bài 2 – Thân thể rỗng không tự ngã, Web
Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã, Web
Bài 4 – Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã, Web
Bài 5 – Thân Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng vô ngã của sắc uẩn, Web
Bài 6 – Ba loại thọ (vedanā) và hiểu biết sai lầm rằng thọ là tự ngã, Web
Bài 7 – Thọ là vô ngã vì thọ gây ra khổ đau và không thể điều khiển, Web
Bài 8 – Thọ Quán Niệm Xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của thọ uẩn, Web
Bài 9 – Tưởng quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của tưởng uẩn., Web
Bài 10 – Hành quán niệm xứ: Quán niệm thực tướng rỗng không vô ngã của hành uẩn, Web
Bài 11 – Chuyện minh họa bản chất gây phiền não của những hành (saṅkhāras) bất thiện, Web
Bài 12 – Thức Là Vô Ngã, Web
Bài 13 – Chánh pháp – lời dạy của tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác khi xuất hiện trên thế gian, Web
Bài 14 –Thế giới (ngũ uẩn) rỗng không như bọt nước, Web
Bài 15 – thấu hiểu đặc tướng vô ngã thông qua đặc tướng vô thường và đặc tướng khổ như thế nào, Web
Bài 16: Ngũ Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Vô Thường Khổ Vô Ngã, Web
Bài 17: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Vô Thường, Web Link
Bài 18: Thấu Hiểu Lý Vô Ngã Dựa Trên Đặc Tướng Khổ, Web
Bài 19: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua thọ quán niệm xứ, Web
Bài 20: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm tưởng uẩn, Web
Bài 21: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Hành uẩn, Web
Bài 22: Thấu triệt đặc tính vô thường – khổ – vô ngã thông qua quán niệm Thức uẩn, Web
Bài 23: Phương cách quán chiếu ngũ uẩn đoạn tận ba loại chấp thủ do tham ái, ngã mạn và tà kiến, Web
Bài 24: Mười một phương cách quán chiếu phân tích sắc uẩn, Web
Bài 25: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thọ uẩn, Web
Bài 26: Mười một phương cách quán chiếu phân tích tưởng uẩn, Web
Bài 27: Mười một phương cách quán chiếu phân tích hành uẩn, Web
Bài 28: Mười một phương cách quán chiếu phân tích thức uẩn, Web
Bài 29: Làm thế nào thuần hóa tuệ minh sát nhờ quán niệm ngũ uẩn sinh diệt, Web
Bài 30: Tuệ chán nản phát triển khi thấy vô thường, khổ, vô ngã , Web
Bài 31: Nibbinda Ñāṇa – Tuệ Nhàm Chán Là Gì? Tu Tập Vun Bồi Như Thế Nào?, Web
Bài 32: Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa), Web
Bài 33: Phát Triển Vuṭṭhānagāminī vipassanā – Tuệ Minh Sát Vượt Lên, Web
Bài 34: Sự phát sanh giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
