Sự quan trọng của việc biết Duyên Khởi – Paticcasamuppāda
Sự quan trọng của việc biết Duyên Khởi – Paticcasamuppāda
– Mahasi Sayadaw
https://www.facebook.com/share/p/1BHMSTEtPx/
#mahasivietbook
–––––––––––––––
Bản dịch Việt này của Gemini pro 2.5 chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót Xin hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/17JYjkR8pX/
–––––––––––––––
Sự quan trọng của việc biết Duyên Khởi – Paticcasamuppāda
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Như Đức Phật đã dạy cho Ngài Ananda, chính vì không biết Paticcasamuppāda Duyên Khởi mà chúng sanh phải trôi lăn trong vòng luân hồi (saṃsāra), không thể thoát khỏi luân hồi, do đó việc biết được pháp Paticcasamuppāda này là vô cùng quan trọng.
Giống như Tứ Thánh Đế (Saccā 4–pā), đây là điều cấp thiết cần phải biết.
Trong phần thứ ba, đã giải thích rõ rằng nếu biết Tứ Thánh Đế thì cũng biết Paticcasamuppāda, và nếu biết Paticcasamuppāda thì cũng biết Tứ Thánh Đế.
Thực hành thiền minh sát (Vipassanā) chính là để quán chiếu nhằm biết một cách vững chắc pháp Paticcasamuppāda và Tứ Thánh Đế này bằng sự chứng ngộ của bản thân bằng trí tuệ.
Tuy nhiên, những pháp này rất sâu sắc và khó biết.
Mặc dù hành giả đang trực tiếp chứng ngộ và biết được trong quá trình quán chiếu và ghi nhận, nhưng việc quyết đoán một cách vững chắc rằng “đây chính là nhân vô minh (avijjā)”, “đây chính là quả hành (saṅkhāra)” v.v… vẫn có thể là điều khó khăn.
Do đó, để có thể thấu hiểu và quyết đoán được các pháp nhân–quả mà hành giả đã tự mình chứng ngộ như vậy, và nếu chưa chứng ngộ thì cũng có thể phỏng đoán và thấu hiểu được, Sư sẽ giảng pháp Paticcasamuppāda này một cách lặp đi lặp lại và từ từ.
Chính Đức Phật, trước khi thành Phật, cũng đã quán xét pháp Paticcasamuppāda này. Cách thức quán xét đó đã được trình bày trong bài pháp đầu tiên.
Sau khi thành Phật, Ngài vẫn ngồi kiết già trên Bảo tọa (Ratanapallaṅka) tại cội Bồ–đề (Bodhi–maṇḍala), nhập A–la–hán Thánh quả Thiền định (Arahatta–phala–samāpatti) và an trú trong suốt bảy ngày.
Ngài đã thụ hưởng Giải thoát lạc (Vimuttisukha).
Vimutti chính là A–la–hán quả (Arahattaphala), sự giải thoát khỏi phiền não (kilesa).
Sukha là sự an lạc.
Vimuttisukha được gọi là sự an lạc của A–la–hán quả giải thoát.
Do đó, trong bảy ngày đó, Ngài chỉ lấy Niết–bàn (Nibbāna) làm đối tượng và nhập Thánh quả Thiền định.
Vào đêm cuối cùng của ngày thứ bảy, trong canh đầu, Ngài đã quán xét pháp Paticcasamuppāda này theo chiều thuận (anuloma) như sau.
Bần tăng sẽ đọc lại cách quán xét bằng tiếng Pāḷi. Chư quý vị thính chúng hãy tưởng tượng và hướng tâm đến cách Đức Phật đã quán xét vào thời đó và hãy phát sanh tịnh tín.
Avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ, viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ, nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ, saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṃ, upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ, soka parideva dukkha domanassa upāyāsā sambhavanti, evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
“Do vô minh duyên cho hành; do hành duyên cho thức; do thức duyên cho danh–sắc; do danh–sắc duyên cho lục nhập; do lục nhập duyên cho xúc; do xúc duyên cho thọ; do thọ duyên cho ái; do ái duyên cho thủ; do thủ duyên cho hữu; do hữu duyên cho sanh; do sanh duyên cho lão–tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khối khổ này.”
Đó chính là cách Ngài đã tác ý và quán xét một cách trọn vẹn pháp Paticcasamuppāda theo chiều thuận.
Tóm tắt ý nghĩa là: việc chúng sanh suy nghĩ, nói năng và hành động để tìm kiếm sự an lạc, trên thực tế, chỉ là những nỗ lực (saṅkhāra) phát sinh do sự không biết Tứ Thánh Đế, tức là do vô minh (avijjā).
Không có một chúng sanh riêng biệt nào đang suy nghĩ, nói năng, hành động. Ngài đã bắt đầu quán xét từ điểm này rằng chỉ có pháp nhân và pháp quả mà thôi.
Tương tự như vậy, không có một cá nhân mới nào phát sinh, mà chỉ có pháp quả là tâm thức (citta–viññāṇa) mới phát sinh do nghiệp hành (kamma) tạo tác.
Do tâm thức đó, pháp quả danh–sắc (nāmarūpa) phát sinh.
Do danh–sắc, pháp quả sáu xứ (āyatana) phát sinh.
Do sáu xứ, pháp quả xúc (phassa) – sự tiếp xúc với đối tượng – phát sinh.
Do xúc, pháp quả thọ (vedanā) – sự cảm nhận – phát sinh.
Do thọ, pháp quả ái (taṇhā) – sự khao khát, tham muốn – phát sinh.
Do ái, pháp quả thủ (upādāna) – sự chấp thủ – phát sinh.
Do thủ, pháp quả là nghiệp (kamma) – nguyên nhân để tái sanh vào đời sống mới – phát sinh.
Do nghiệp nhân đó, pháp quả là sự sanh (jāti) vào đời sống mới xuất hiện.
Do sanh, sự già và sự chết xuất hiện.
Các pháp quả là sầu, bi, khổ (thân), ưu (tâm), và não cũng xuất hiện.
Nhìn một cách tổng thể, đây chỉ thuần là một khối khổ gồm nhân và quả. Hoàn toàn không có sự an lạc, không có một cá nhân hay chúng sanh riêng biệt nào.
Ngài đã quán xét rằng trong toàn bộ thế giới này, chỉ có khối khổ thuần túy đang tiếp diễn qua mối liên hệ nhân–quả.
Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại bài kệ tóm tắt về Paticcasamuppāda này.
“Do không biết sự thật, thấy biết sai lầm, vì vô minh (avijjā),
Với hy vọng và mong cầu sẽ được an lạc,
Tạo tác ba loại nghiệp,
Thức (viññāṇa) nối liền,
Danh–sắc (nāmarūpa) bám vào,
Rồi sáu xứ (āyatana),
Sáu loại xúc (phassa),
Do thọ (vedanā),
Sáu thứ ái (taṇhā),
Cùng với thủ (upādāna),
Gieo thêm nhân nghiệp (kamma),
Lại phải sanh vào cảnh giới tốt, xấu,
Rồi già, rồi chết, buồn sầu,
Khóc than, thân mệt, tâm không an,
Phải chịu phiền muộn,
Chỉ là toàn bộ khối khổ mà thôi.”
Trong bài kệ này, tuần trước chúng ta mới chỉ giảng xong đoạn “do danh–sắc, sáu xứ phát sinh”. Do đó, hôm nay chúng ta sẽ giảng đoạn “Saḷāyatanapaccayā phasso – do sáu xứ làm duyên, xúc phát sinh”.
Do āyatana, phassa sanh khởi
🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂
Saḷāyatanapaccayā, do nhân là sáu xứ (āyatana). Phasso, xúc, sự tiếp xúc với đối tượng. Sambhavati, sanh khởi.
Sáu xứ (āyatana)
➖➖➖➖➖➖➖➖
Có sáu nội xứ (ajjhattika–āyatana) và cũng có sáu ngoại xứ (bāhira–āyatana).
Sáu nội xứ chính là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Sáu ngoại xứ là sáu đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Xúc (phassa) chính là bản chất của sự tiếp xúc rõ ràng với sáu đối tượng này.
Khi mắt thấy, có sự tiếp xúc rõ ràng với đối tượng sắc.
Khi tai nghe, có sự tiếp xúc với đối tượng thanh.
Khi mũi ngửi, có sự tiếp xúc với đối tượng hương.
Khi lưỡi biết vị, có sự tiếp xúc với đối tượng vị.
Khi thân chạm, có sự tiếp xúc với đối tượng xúc.
Khi ý suy nghĩ, có sự tiếp xúc với đối tượng pháp, đối tượng của tâm tưởng.
Sự biểu hiện của xúc (phassa)
Xúc này không phải là một pháp sắc (rūpadhamma) có hình thể vật chất, mà là một pháp danh (nāmadhamma) không có hình thể vật chất. Tuy nhiên, nó lại rõ ràng như thể có sự va chạm với đối tượng.
Để chỉ ra một hình thức biểu hiện đặc biệt rõ ràng, khi nhìn thấy người khác ăn quả chua, nước bọt có thể ứa ra. Đó chính là bản chất của sự tiếp xúc của tâm với vị chua.
Khi nhìn thấy người khác bị tra tấn, người có lòng trắc ẩn có thể cảm thấy tim mình rung động, và thân cũng có thể run lên.
Khi nhìn thấy ai đó đứng ở một nơi không vững chãi và có thể gây nguy hiểm như ngọn cây hay vách đá, người vốn sợ hãi dù đang đứng trên mặt đất bằng phẳng cũng có thể cảm thấy run đầu gối.
Khi đang đi bộ lơ đãng và bất ngờ đối mặt với một chiếc xe hơi, dù chưa bị đâm phải, người ta cũng có thể giật mình hoảng hốt như thể đã bị đâm.
Đây là những ví dụ về việc cảm nhận như thể có sự tiếp xúc dù thân không thực sự chạm vào.
Khi nhìn thấy ma quỷ, chân có thể cứng đờ, lông tóc có thể dựng đứng. Đây cũng là bản chất của việc cảm nhận như thể có sự va chạm dù thực tế không có.
Khi nghe hoặc đọc một câu chuyện, một tình tiết hấp dẫn, dù không thực sự chứng kiến những điều đó, chúng vẫn hiện lên rõ ràng trong tâm trí.
Trong một số trường hợp, chúng hiện lên rõ ràng đến mức không thể xua đi được. Tất cả những điều này đều là những biểu hiện đặc biệt về sự phát sinh của xúc (phassa), pháp có tính chất tiếp xúc với đối tượng.
(Còn tiếp….)
Đại Trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw
Trích từ Đại Pháp thoại Paticcasamuppāda, Tập 1
Trang 261 đến 266
Từ ứng dụng của Ngài Kovida
Aung Aung
14.9.2024
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
