Quán Pháp Tứ Niệm Xứ 3/15
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ 3/15
[Bẩy lợi ích của Tứ niệm xứ tt]
– Shwe Hinthar Sayadaw
https://www.facebook.com/share/p/19WpYUNAnK/
Shwe Hinthar Sayadaw
#pqtnx #myanmarsayadaw
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Grok ngày 13.9.2025 này chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bài viết gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:
https://www.facebook.com/share/p/16NccEuohD/
–––––––––––––––
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ
Phần (3/15)
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Khổ tâm chỉ có thể được an tịnh.
Vua trời Đế Thích cũng vậy, như bài kệ đã nói: “Tai voi rũ xuống, mồ hôi chảy dưới nách, sắc thân tàn hoại, chẳng còn vui nơi cung trời, vẻ uy nghi của chư thiên, ôi, năm dấu hiệu suy tàn!” Khi năm dấu hiệu của sự qua đời từ cõi trời Đế Thích xuất hiện, do sợ hãi và kinh hoàng trước hiểm họa của cái chết, tâm trí bất an, ưu (domanassa) khởi sinh. Khi nhìn đến nơi nương tựa, nhờ trí tuệ, ngài thấy được Đức Thế Tôn, và lập tức đến đảnh lễ Đức Thế Tôn. Như trong kinh Sakka–pañhā Sutta đã ghi, ngài đã thỉnh vấn Đức Thế Tôn về các câu hỏi.
Trong quá trình thỉnh vấn từng bước, đến câu trả lời về vấn đề thọ xả (upekkhā–vedanā), cùng với tám vạn chư thiên, vua trời Đế Thích đã chứng đắc quả Tu–đà–hoàn (Sotāpatti–phala). Ngài cũng trở lại làm vua trời Đế Thích một lần nữa. Vào lúc ấy, nhờ pháp Tứ niệm xứ, hay nói cách khác, nhờ con đường dẫn đến Tứ niệm xứ, ưu thọ (domanassa–vedanā) khởi sinh trong dòng tâm thức của vua trời Đế Thích đã được dập tắt, an tịnh và lắng dịu.
Như vậy, pháp thoại Tứ niệm xứ có công năng dập tắt khổ (dukkha) và ưu (domanassa), đưa đến sự an tịnh, và điều này được khẳng định là một trong những lợi ích của pháp ấy.
Câu chuyện về thiên tử Tô–bà–la–ma (Subrahmā) cũng cần được ghi nhớ. Thiên tử Tô–bà–la–ma, trong khi đang hưởng thụ sự phú quý của cõi trời cùng với một ngàn thiên nữ tùy tùng, vui vẻ và hân hoan, thấy rằng năm trăm thiên nữ trong số tùy tùng củamình, những người đang hái hoa từ cây cối, đã qua đời và rơi vào địa ngục.
Thiên tử Tô–bà–la–ma tự hỏi: “Những thiên nữ này đã đi đâu lâu như vậy?” Khi quán xét, ngài thấy rằng năm trăm thiên nữ ấy đã qua đời và rơi vào địa ngục, đang chịu khổ đau. Lúc ấy, ngài quán xét tiếp: “Còn ta, tuổi thọ cõi trời của ta còn bao lâu?” Ngài thấy rằng tuổi thọ cõi trời của mình cũng sắp cạn, và sau khi qua đời từ cõi trời, ngài sẽ rơi vào địa ngục.
Vào lúc ấy, thiên tử Tô–bà–la–ma trở nên vô cùng sợ hãi, kinh hoàng, tâm trí bất an, ưu (domanassa) khởi sinh. Ngài nghĩ rằng: “Ưu trong dòng tâm thức của ta, nỗi bất an này, không ai khác có thể dập tắt, chỉ có Đức Thế Tôn mới có thể giúp ta dập tắt nỗi ưu này.” Vì vậy, ngài dẫn theo năm trăm thiên nữ còn lại, đến đảnh lễ Đức Thế Tôn với lòng cung kính, và thỉnh vấn các câu hỏi.
“Thưa Đức Thế Tôn, vào thời điểm này, tâm trí của con luôn luôn dao động, kinh hoàng, và vô cùng bất an. Xin Đức Thế Tôn giảng dạy pháp có thể dập tắt nỗi ưu (domanassa) này, đưa tâm trí con đến sự an tịnh.” Ngài đã thỉnh cầu như vậy.
Nguyên nhân của sự lo lắng, ưu (domanassa) là bởi ngài thấy năm trăm thiên nữ yêu quý của mình đã rơi vào địa ngục A–tỳ (Avīci) và đang chịu khổ đau, đó là một nguyên nhân. Và nguyên nhân thứ hai, sau bảy ngày nữa, cùng với năm trăm thiên nữ còn lại, chính ngài cũng sẽ rơi vào địa ngục A–tỳ. Do hai nguyên nhân này, tâm trí của thiên tử Tô–bà–la–ma bị vây quanh bởi sự bất an, lo lắng, và sợ hãi, trở nên dao động, không an ổn, đầy những phiền não (soka–vyāpāda).
Ở đây, cả cái chết và việc tái sinh vào cõi nào, không ai biết trước được. Con người và chúng sinh, như câu nói “Mắt mù không sợ ma quỷ,” vì không thấy, không biết đến hiểm họa, họ sống vô tư, không sợ hãi, không màng đến. Điều này, khi suy ngẫm, thật đáng sợ.
Như bài kệ dạy rằng: “Tuổi thọ, bệnh tật, thời điểm, nơi thân này bị vứt bỏ, và cõi tái sinh, năm điều này, trong thế gian sống động, không có dấu hiệu, không ai biết trước.”
Vì thế, con người không nên sống buông thả, quên lãng, lơ là. Năm trăm thiên nữ ấy đã sống vô tư, nên bất ngờ bị nghiệp đoạn mệnh (upacchedaka–kamma) tác động, mang lại quả báo, khiến họ bị rơi vào bất hạnh. Còn thiên tử Tô–bà–la–ma, do nhân duyên từ năm trăm thiên nữ ấy, quán xét tuổi thọ của mình, trở nên sợ hãi, kinh hoàng, và bất an trong tâm.
Khi nhìn đến nơi nương tựa, nhờ phước duyên, ngài nhớ đến Đức Thế Tôn, nhận được phước báu của sự nương tựa vào bậc thiện hữu (sappurisa–nissaya–maṅgala), và tìm được chỗ dựa vững chắc. Giống như Tỳ–kheo–ni Ba–đa (Paṭācārā), những người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa sầu muộn (soka) và than khóc (parideva), chỉ nhờ liều thuốc Tứ niệm xứ mới dập tắt được ngọn lửa ấy và đạt được an lạc.
Đạt được Đạo siêu thế (Lokuttara–magga).
–––––––––––––––
Đức Thế Tôn tiếp tục chỉ dạy về lợi ích của pháp Tứ niệm xứ: “Để đạt được sự thanh tịnh, thoát khỏi các lậu hoặc (kilesā), pháp Tứ niệm xứ là con đường dẫn đến Đạo siêu thế (lokuttara–magga).”
Việc thực hành Tứ niệm xứ được gọi là con đường sơ khởi (pubbabhāga–paṭipadā), tức là pháp hành thế gian (lokiya–magga). Nhờ thực hành và nỗ lực trong pháp hành thế gian này, người ta đạt được Đạo thánh siêu thế (lokuttara–ariya–magga).
Đạt được Niết–bàn.
–––––––––––––––
Đức Thế Tôn tiếp tục giảng dạy về lợi ích của Tứ niệm xứ: “Nibbānassa sacchikiriyāya.”
Người thực hành Tứ niệm xứ sẽ đạt được lợi ích là tự mình chứng ngộ Niết–bàn, trạng thái an lạc tối thượng, như Đức Thế Tôn đã chỉ dạy.
Trạng thái an tịnh được gọi là “Niết–bàn,” vì nó thoát khỏi ngọn lửa tham ái (taṇhā), ngọn lửa gây thiêu đốt và khổ đau. Do đó, pháp Tứ niệm xứ có công năng dập tắt ngọn lửa tham ái và mang lại sự an tịnh, như đã được dạy.
Đức Thế Tôn, với lòng từ bi, khuyến khích bốn chúng (Tỳ–kheo, Tỳ–kheo–ni, ưu–bà–tắc, ưu–bà–di) hăng hái thực hành Tứ niệm xứ với tâm nhiệt thành và quyết tâm. Ngài chỉ rõ các lợi ích tức thời mà người thực hành Tứ niệm xứ sẽ đạt được. Pháp Tứ niệm xứ được chia thành bốn loại, như sau:
Thân quán niệm xứ (kāyānupassanā satipaṭṭhāna),
Thọ quán niệm xứ (vedanānupassanā satipaṭṭhāna),
Tâm quán niệm xứ (cittānupassanā satipaṭṭhāna),
Pháp quán niệm xứ (dhammānupassanā satipaṭṭhāna).
Việc phân chia Tứ niệm xứ thành bốn loại được Đức Thế Tôn giảng dạy để phù hợp với căn tánh và trí tuệ của người nghe pháp (dhamma–paṭiggāhaka) hoặc hành giả (yogī), cũng như để thích ứng với các loại tính cách (carita) như tham ái (rāga–carita) và tà kiến (diṭṭhi–carita). Đối với những người có trí tuệ kém (manda–puggala) hoặc tham ái mạnh, Ngài giảng dạy Thân quán niệm xứ. Đối với những người có trí tuệ sắc bén, Ngài giảng dạy Thọ quán niệm xứ tinh tế. Đối với những người có tà kiến và trí tuệ kém, Ngài giảng dạy Tâm quán niệm xứ, không quá rộng. Đối với những người có trí tuệ sắc bén, Ngài giảng dạy Pháp quán niệm xứ, rộng lớn hơn.
Nói cách khác: Đối với hành giả thiền định (samatha–yānika) có trí tuệ trung bình, Ngài giảng dạy Thân quán niệm xứ, không cần nỗ lực quá nhiều để nhận ra đối tượng. Đối với hành giả thiền định có trí tuệ sắc bén, Ngài giảng dạy Thọ quán niệm xứ. Đối với hành giả thiền quán (vipassanā–yānika) có trí tuệ kém, Ngài giảng dạy Tâm quán niệm xứ. Đối với hành giả thiền quán có trí tuệ sắc bén, Ngài giảng dạy Pháp quán niệm xứ.
Như vậy, các luận sư trong Chú giải (Aṭṭhakathā) đã phân tích rằng pháp Tứ niệm xứ được chia thành bốn loại.
Những điều được trình bày trên đây là các nguyên nhân khiến Đức Thế Tôn giảng dạy pháp Tứ niệm xứ, và điều này cần được ghi nhớ.
Những Tỳ–kheo, Tỳ–kheo–ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nỗ lực thực hành và học tập pháp Tứ niệm xứ, nhờ công phu ấy, sẽ đạt được:
Sự thanh tịnh, thoát khỏi các lậu hoặc (kilesā),
Sự giải thoát khỏi sầu muộn và than khóc (soka–parideva),
Sự dập tắt khổ và ưu (dukkha–domanassa),
Sự chứng đắc Đạo thánh (ariya–magga),
Sự chứng ngộ Niết–bàn, trạng thái an tịnh, bằng trí tuệ trực giác.
Với niềm tin (saddhā) rằng những lợi ích này thực sự sẽ đạt được, hãy thực hành Tứ niệm xứ theo ý nguyện và căn tánh phù hợp của mình, để đạt được các quả báu dẫn đến Niết–bàn.
Pháp thoại Đại Niệm Xứ (Mahā–satipaṭṭhāna Sutta) phần giới thiệu đến đây kết thúc.
Sư Thiện Hỷ (Shwe Hinthar Sayādaw)
Phật Giáo Nguyên Thủy
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 1/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 2/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 3/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 4/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 5/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 6/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 7/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 8/15 , Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 9/15, Web
Pháp Quán Tứ Niệm Xứ – 10/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 11 /15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 12/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 13/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 14/15, Web
Quán Pháp Tứ Niệm Xứ – 15/15, Web
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
