Ledi Sayadaw Vipassanā Dipani – 1/9
Ledi Sayadaw Vipassanā Dipani – 1/9
https://www.facebook.com/share/p/1G9gNXDFWK/
#Ledidipani
–––––––––––––––
Bản dịch Việt của Grok ngày 12.9.2025 chưa được hiệu đính còn có thể có nhiều sai sót hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại bài viết chia sẻ cuối bài.
https://www.facebook.com/share/p/15Foj3qKX6p/
–––––––––––––––
Vipassanā Dīpanī Phần 1/9 ▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
Vipassanā Dīpanī – Ledi Sayadaw
Mục lục
▬▬▬▬
Lời dẫn nhập
Luận về Sai lầm (Vipallāsa Kathā)
Luận về Tà niệm (Maññanā Kathā)
Luận về Thâm nhập (Abhinivesa Kathā)
Luận về Cảnh giới (Bhūmi Kathā)
Luận về Đích đến (Gati Kathā)
Luận về Sự thật (Sacca Kathā)
Luận về Nhân duyên (Paccaya Kathā)
Luận về Thắng trí (Abhiññā Kathā)
Luận về Trí hiểu biết (Pariññā Kathā)
Chi tiết về Trí phân biệt (Tīraṇa Pariññā)
Chi tiết về Trí đoạn trừ (Pahāna Pariññā)
Công việc Thiền quán (Vipassanā Lực nghiệp)
Kết luận
Lời dẫn nhập
▬▬▬▬
Bodhaneyyaṃ janaṃ disvā,
Satasahassepi yojane.
Khaṇena upagantvāna,
Bodheti taṃ mahāmuni.
(Apadāna–Ṭīkā, trang 36)
Mahāmuni – Đức Thế Tôn, bậc Đại Hiền Triết, người dẫn dắt năm loại ẩn sĩ,
Bodhaneyyaṃ – nhìn thấy chúng sinh đáng được giác ngộ,
Janaṃ – chúng sinh ấy,
Disvā – khi nhìn thấy,
Satasahassepi yojane – dù ở khoảng cách một trăm ngàn do–tuần,
Khaṇena – trong khoảnh khắc,
Upagantvāna – với lòng từ bi dẫn đầu, ngài đến gần,
Taṃ – chúng sinh đáng được giác ngộ ấy,
Bodheti – ngài khiến họ giác ngộ.
Đức Thế Tôn Toàn Tri, người thương xót tất cả chúng sinh đáng được thuần hóa, khi thấy chúng sinh đáng được giác ngộ, dù ở cách xa một trăm ngàn do–tuần, ngài lập tức đến gần trong khoảnh khắc và chỉ dạy bốn Chân lý, khiến chúng sinh thoát khỏi ngôi nhà giam cầm của hàng ngàn phiền não.
Cũng như vậy, Đại đức Ledi Sayadaw ở thành phố Monywa, đối với tất cả các dân tộc bản địa, các vị Tỳ–kheo, Sa–di, và mọi người, đã ban phát dòng nước pháp mát lành và liều thuốc quý giá, hướng dẫn con đường đúng đắn để đạt được trí tuệ Vipassanā, giúp các thiện nam tín nữ khao khát Đạo và Quả hiểu rõ bản chất Vô thường, Khổ đau, và Vô ngã của các pháp hữu vi thông qua trí hiểu biết (Ñāta Pariññā), trí phân biệt (Tīraṇa Pariññā), và trí đoạn trừ (Pahāna Pariññā).
Vì mục đích này, ngài đã nỗ lực soạn thảo cuốn sách Vipassanā Dīpanī này.
Cuốn sách Vipassanā Dīpanī này được soạn thảo với tâm nguyện mãnh liệt rằng tất cả những thiện nam tín nữ khao khát Đạo và Quả, trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật, có thể nhanh chóng loại bỏ phiền não Tà kiến (Diṭṭhi Kilesa), phiền não nguy hiểm nhất trong mười loại phiền não, và trở thành những bậc thánh trong cảnh giới siêu thế (Lokuttara).
Với sự tinh tấn không ngừng ngày đêm, dựa trên bốn yếu tố của Chánh tinh tấn (Sammappadhāna), họ có thể thực hành và phát triển pháp thiền quán cao quý mà không hề chệch hướng.
Nếu đọc cuốn sách Vipassanā Dīpanī này với con mắt của Định lực (Samādhi), người đọc sẽ cảm nhận được hương vị của pháp (Dhammarasa) và thiền quán.
Khi đó, tâm hướng thượng, tâm cao quý, mong muốn tiến tới các pháp hỗ trợ giác ngộ (Bodhipakkhiya Dhamma) sẽ phát sinh. Lúc ấy, người đọc sẽ tự hào rằng mình xứng đáng được gọi là một Phật tử và cuộc đời làm người trở nên ý nghĩa.
Vì vậy, mong rằng tất cả mọi người sẽ vui mừng, tràn đầy hỷ lạc (Pīti), và với sự tinh cần không ngừng, sẽ đọc đi đọc lại cuốn sách này nhiều lần, luôn chú tâm tỉnh giác.
Lời dẫn nhập hoàn tất.
“Vipassanā Dīpanī”
▬▬▬▬▬▬
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
–––––––––––––––
1 – LUẬN VỀ SAI LẦM (VIPALLĀSA KATHĀ)
–––––––––––––––
Ba loại Sai lầm (Vipallāsa)
▬▬▬▬▬▬▬▬
Vipallāsa nghĩa là sự sai lệch, méo mó.
Nó là sự sai lầm khi cho rằng cái đúng, cái thật là không đúng, không thật,
Và cho rằng cái không đúng, không thật là đúng, là thật.
Vipallāsa có ba loại:
(1) Sai lầm về tri giác (Saññā Vipallāsa)
(2) Sai lầm về tâm ý (Citta Vipallāsa)
(3) Sai lầm về tà kiến (Diṭṭhi Vipallāsa)
Saññā Vipallāsa nghĩa là sự nhận thức sai lầm.
Sự nhận thức sai lầm này có bốn loại:
a. Nhận thức sai lầm rằng cái Vô thường (Anicca) là Thường (Nicca).
b. Nhận thức sai lầm rằng cái Xấu xí (Asubha) là Đẹp (Subha).
c. Nhận thức sai lầm rằng cái Khổ (Dukkha) là Lạc (Sukha).
d. Nhận thức sai lầm rằng cái Vô ngã (Anatta) là Ngã (Atta).
Trong ba loại Sai lầm này:
⑴ Saññā Vipallāsa – Ví dụ về loài hươu rừng:
–––––––––––––––
Trong một khu rừng lớn, có một cánh đồng lúa được canh tác. Những con hươu rừng thường đến ăn các loại cây trồng khi người nông dân không có mặt.
Để làm cho hươu rừng sợ hãi, người nông dân dựng một hình nộm bằng cỏ khô giữa cánh đồng, tạo hình giống con người, với thân, đầu, tay, chân được làm từ cỏ khô buộc bằng dây thừng. Một chiếc nồi nhỏ được vẽ mặt người bằng vôi trắng và đội lên đầu hình nộm. Hình nộm được mặc quần áo cũ, áo khoác cũ, và cầm cung tên trong tay.
Khi hươu rừng đến cánh đồng để ăn, chúng thấy hình nộm này, tưởng là người thật, sợ hãi và bỏ chạy.
Trong ví dụ này, hươu rừng đã quen thuộc với hình dáng thực của con người từ trước. Khi thấy hình nộm bằng cỏ, chúng nhầm tưởng là người thật và sợ hãi. Sự nhận thức sai lầm này giống như Saññā Vipallāsa. Nó rất nông cạn, giống như người bị hoa mắt thấy mọi thứ mờ mịt dù nhìn rõ ràng, nhưng khi nhầm lẫn thì sự nhầm lẫn ấy rất kiên cố, khó thay đổi.
Trong thân thể, các đặc tính Vô thường, Khổ, Vô ngã, và Xấu xí hiển nhiên rõ ràng, nhưng do Saññā Vipallāsa, người ta vẫn nhìn thấy sai lệch, giống như hươu rừng nhầm lẫn dù thấy rõ ràng.
⑵ Citta Vipallāsa – Ví dụ về ảo thuật:
–––––––––––––––
Có một loại kỹ năng ảo thuật. Khi sử dụng kỹ năng này để biểu diễn, người xem thấy đất đá bình thường tưởng là vàng bạc.
Sức mạnh của ảo thuật có thể làm sai lệch nhận thức tự nhiên của con người, khiến họ thấy khác đi trong khoảnh khắc, làm cho tâm ý bị méo mó.
Bình thường, họ thấy đất đá đúng như bản chất của nó. Nhưng dưới ảnh hưởng của ảo thuật, họ thấy đất đá như vàng sáng lấp lánh hay bạc trắng tinh khiết, và tin rằng đó là vàng, là bạc, dẫn đến sự sai lầm trong niềm tin.
Tương tự, tâm ý (Citta) có thể bịa đặt, lừa dối, khiến cái không thật trở thành thật. Vào ban đêm, thấy gốc cây tưởng là người, thấy bụi cây tưởng là voi rừng, hay thấy voi rừng tưởng là bụi cây.
Tất cả những sự nhầm lẫn trong thế gian đều là do tâm ý lừa dối. Citta Vipallāsa khiến cái không thật trở thành thật, do đó nó sâu sắc hơn Saññā Vipallāsa.
Tuy nhiên, khi được giải thích bằng lý trí, nó dễ dàng được xóa bỏ, không kiên cố như Saññā Vipallāsa.
⑶ Diṭṭhi Vipallāsa – Ví dụ về con đường sai lầm:
–––––––––––––––
Có một khu rừng lớn, trong đó có những con quỷ gọi là Yakkha (nạt–sô) dựng nên một thành phố.
Những lữ khách không quen thuộc đường sá đi vào khu rừng này. Các con quỷ biến thành phố của chúng trông như thành phố của chư thiên, biến bản thân chúng trông như thiên nam, thiên nữ, và biến con đường trông như con đường thần tiên đầy mê hoặc.
Các lữ khách thấy con đường này, tin rằng nó dẫn đến một thành phố lớn, liền bỏ con đường đúng để đi theo con đường sai lầm này. Khi đến thành phố của quỷ, họ tưởng đó là thành phố của người tốt, yên tâm ngủ nghỉ. Vào ban đêm, quỷ nhập vào cơ thể họ, cắn xé gan, phổi, tim, và hút máu, khiến họ chết.
Trong ví dụ này:
Ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) giống như khu rừng lớn.
Chúng sinh giống như các lữ khách.
Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) giống như con đường đúng.
Tà kiến (Micchādiṭṭhi) giống như con đường sai lầm.
Trong lời này, Chánh kiến được chia thành hai loại:
a) Chánh kiến thế gian (Lokiya Sammādiṭṭhi)
b) Chánh kiến hỗ trợ giác ngộ (Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi)
Trong hai loại này:
⒜ Lokiya Sammādiṭṭhi: Là quan niệm rằng chỉ có nghiệp thiện và nghiệp ác là tài sản riêng đi theo chúng sinh qua các kiếp sống. Đây được gọi là Kammassakatā Sammādiṭṭhi (Chánh kiến về quyền sở hữu nghiệp).
⒝ Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi: Là trí tuệ hiểu biết về Duyên khởi (Paṭiccasamuppāda), các uẩn, các xứ, và bản chất Vô ngã.
Trong hai loại này:
Về phía vòng luân hồi (Vaṭṭa), Kammassakatā Sammādiṭṭhi giống như con đường đúng, dẫn đến các cõi thiện (như cõi người, cõi trời, cõi Phạm thiên), giống như thành phố của người tốt.
Những tà kiến như Natthikadiṭṭhi (hư vô luận), Ahetukadiṭṭhi (vô nhân luận), Akiriyadiṭṭhi (vô tác luận), phủ nhận nghiệp thiện, nghiệp ác và quả của chúng, giống như con đường sai lầm dẫn đến các cõi ác (như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a–tu–la), giống như thành phố của quỷ.
Về phía thoát ly luân hồi (Vivaṭṭa), Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi giống như con đường đúng, dẫn đến Niết–bàn, giống như thành phố của người tốt.
Tà kiến cho rằng thân thể là “cái tôi” (Attadiṭṭhi, Sakkāyadiṭṭhi) giống như con đường sai lầm, dẫn đến toàn bộ thế giới luân hồi (cõi người, cõi trời, cõi Phạm thiên), giống như thành phố của quỷ.
Trong Vivaṭṭa, Attadiṭṭhi và Sakkāyadiṭṭhi được gọi là Diṭṭhi Vipallāsa. Loại Sai lầm này sâu sắc hơn Citta Vipallāsa và cực kỳ kiên cố.
Luận về Sai lầm hoàn tất.
–––––––––––––––
2 – LUẬN VỀ TÀ NIỆM (MAÑÑANĀ KATHĀ)
–––––––––––––––
Ba loại Tà niệm
▬▬▬▬▬▬▬
Maññanā nghĩa là sự tưởng lầm, phóng đại. Nó là sự tưởng tượng vượt quá sự thật, do vô minh (Avijjā) mà sinh ra Sai lầm (Vipallāsa), và từ Sai lầm này sinh ra sự tưởng lầm.
Maññanā có ba loại:
(1) Tham ái Tà niệm (Taṇhā Maññanā)
(2) Ngã mạn Tà niệm (Māna Maññanā)
(3) Tà kiến Tà niệm (Diṭṭhi Maññanā)
Trong ba loại này:
⑴ Taṇhā Maññanā: Là sự bám víu và tưởng lầm rằng những gì không thuộc về mình là “của tôi”.
Thực tế, không có cái “tôi”; nếu không có cái “tôi”, thì không có cái “của tôi”.
Dù vậy, đối với các đối tượng nội tại (Ajjhatta Vatthu) và ngoại tại (Bahiddha Vatthu), người ta vẫn phân biệt trong tâm rằng “Đây là của tôi, đây không phải của tôi; đây thuộc về tôi, đây không thuộc về tôi”, dẫn đến sự bám víu và tưởng lầm lớn lao.
Đây được gọi là Taṇhā Maññanā.
Ajjhatta Vatthu: Là thân thể của mình, đầu, tay, chân, mắt, tai, v.v.
Bahiddha Vatthu: Là cha mẹ, họ hàng, bò, trâu, voi, ngựa, nhà cửa, vườn tược, cây cối, quần áo, trang sức, vàng, bạc, v.v.
Māna Maññanā: Là sự tưởng lầm trong tâm rằng các đối tượng nội tại là “tôi”. Sự tưởng lầm này trở nên kiêu mạn, tự cao, ngạo mạn khi được hỗ trợ bởi các đối tượng nội tại và ngoại tại.
Ajjhatta Vatthu: Là sức mạnh của mắt, tai, tay, chân, giới hạnh, học thức, trí tuệ, thần thông, v.v.
Bahiddha Vatthu: Là sức mạnh của họ hàng, dòng tộc, làng xóm, tài sản, vũ khí, v.v. Ví dụ, nếu mắt tốt, người ta tự hào vì mắt; nếu mắt mù, sự tự hào ấy giảm sút.
Diṭṭhi Maññanā: Là sự tưởng lầm rằng các đối tượng nội tại là “cái tôi thực chất, cái tôi cốt lõi, cái tôi bền vững, cái tôi thật sự”.
Ví dụ, trong một cái bình đất, đất là chất cốt lõi; người ta gọi đất là bình. Trong một cái bình sắt, sắt là chất cốt lõi; người ta gọi sắt là bình.
Tương tự, người ta xem đất (Paṭhavī Dhātu) trong thân thể là chất cốt lõi của chúng sinh, gọi đó là “tôi”, là “chúng sinh”. Điều này cũng áp dụng cho các yếu tố khác như nước (Āpo Dhātu), lửa (Tejo Dhātu), v.v. Sự tưởng lầm này sẽ được làm rõ ở phần sau.
Ba loại Tà niệm này, vì sự bám víu kiên cố, được gọi là Gāha (Sự nắm giữ). Vì chúng làm gia tăng liên tục các sai lầm không thể dập tắt, chúng cũng được gọi là Papañca (Sự phiền não lan rộng).
Luận về Tà niệm hoàn tất.
–––––––––––––––
3 – LUẬN VỀ THÂM NHẬP (ABHINIVESA KATHĀ)
–––––––––––––––
Hai loại Thâm nhập
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Abhinivesa nghĩa là sự cắm rễ sâu chắc, như cột cửa, bia đá, hay cột mốc, không thể lay chuyển hay di dời dù bằng bất kỳ lý do nào.
Abhinivesa có hai loại:
(1) Tham ái Thâm nhập (Taṇhā Abhinivesa)
(2) Tà kiến Thâm nhập (Diṭṭhi Abhinivesa)
Trong hai loại này:
⑴ Taṇhā Abhinivesa: Là sự bám víu kiên cố, không lay chuyển qua các kiếp sống, xem thân thể, các bộ phận lớn như đầu, tay, chân, và các bộ phận nhỏ như mắt, tai, là “của tôi”. Sự bám víu này gọi là Taṇhā Abhinivesa.
⑵ Diṭṭhi Abhinivesa: Là sự tin tưởng kiên cố, không lay chuyển qua các kiếp sống, rằng thân thể của chúng sinh là thực thể, là chất cốt lõi, là “cái tôi” bền vững, là linh hồn hay cái chủ thể kiểm soát. Sự bám víu này gọi là Diṭṭhi Abhinivesa.
Taṇhā Abhinivesa còn được gọi là Taṇhā Nissaya (Nơi nương tựa của Tham ái), và Diṭṭhi Abhinivesa được gọi là Diṭṭhi Nissaya (Nơi nương tựa của Tà kiến).
Chúng cũng được gọi là hai nơi nương tựa của năm uẩn và các pháp sắc–tâm, hoặc hai nơi nương tựa lớn của chúng sinh phàm phu.
Luận về Thâm nhập hoàn tất.
–––––––––––––––
4 – LUẬN VỀ CẢNH GIỚI (BHŪMI KATHĀ)
–––––––––––––––
Hai loại Cảnh giới
▬▬▬▬▬▬▬
Bhūmi nghĩa là nơi nương tựa, nơi sinh khởi của chúng sinh. Có hai loại:
(1) Cảnh giới Phàm phu (Puthujjana Bhūmi)
(2) Cảnh giới Thánh nhân (Ariya Bhūmi)
Trong hai loại này:
⑴ Puthujjana Bhūmi: Là trạng thái của phàm phu, tức là trạng thái bị chi phối bởi Tà kiến Sai lầm (Diṭṭhi Vipallāsa) trong ba loại Sai lầm.
Tất cả chúng sinh trong các cõi thế gian xem thân thể mình có bản chất Thường, Lạc, và Ngã, dựa vào Tà kiến Sai lầm, Tà kiến Tà niệm, Tà kiến Nắm giữ, Tà kiến Phiền não, và Tà kiến Thâm nhập làm nơi nương tựa.
Vì vậy, Diṭṭhi Vipallāsa được gọi là Puthujjana Bhūmi.
⑵ Ariya Bhūmi: Là trạng thái của bậc Thánh, tức là trạng thái đã nhổ sạch gốc rễ của Tà kiến Sai lầm, nhận biết rằng trong thân thể không có bản chất Thường, Lạc, hay Ngã, với trí tuệ Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) đúng đắn.
Các bậc Thánh nhân dựa vào Chánh kiến này làm nơi nương tựa. Vì vậy, Sammādiṭṭhi được gọi là Ariya Bhūmi.
Trong vòng luân hồi vô tận (Anamatagga Saṃsāra), vô số chúng sinh phàm phu lưu chuyển lâu dài trong Puthujjana Bhūmi. Nếu một người, vào một ngày nào đó, đạt được trí tuệ Chánh kiến, nhổ sạch gốc rễ của Tà kiến Sai lầm, thì từ ngày đó, họ đạt đến Ariya Bhūmi, trở thành bậc Thánh chân thật (Paramattha Ariya).
Dù một số bậc Thánh vẫn còn Saññā Vipallāsa và Citta Vipallāsa, nhưng vì đã nhổ sạch Diṭṭhi Vipallāsa và đạt được trí tuệ Chánh kiến, các Sai lầm còn lại không thể dẫn đến hành vi xấu ác. Họ chỉ còn hưởng thụ sự an lạc từ pháp mà họ đã đạt được.
Luận về Cảnh giới hoàn tất.
Đại đức Ñāṇadhaja
Aggamahāpaṇḍita
Ledi Sayadaw đệ nhất
Vipassanā Dīpanī – Ledi Sayadaw đệ nhất
–––––––––––––––
ဝိပဿနာဒီပနီ အပိုင်း (၁/၉)
Vipassanā Dīpanī Phần 1/9
▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬
ဝိပဿနာ ဒီပနီ – လယ်တီဆရာတော်
Vipassanā Dīpanī – Ledi Sayadaw
မာတိကာ
Mục lục
▬▬▬▬
မူလနိဒါန်း
Lời dẫn nhập
၁။ ဝိပလ်လာသ ကထာ
Luận về Sai lầm (Vipallāsa Kathā)
၂။ မညနာ ကထာ
Luận về Tà niệm (Maññanā Kathā)
၃။ အဘိနိဝေသ ကထာ
Luận về Thâm nhập (Abhinivesa Kathā)
၄။ ဘူမိ ကထာ
Luận về Cảnh giới (Bhūmi Kathā)
၅။ ဂတိ ကထာ
Luận về Đích đến (Gati Kathā)
၆။ သစ်စ ကထာ
Luận về Sự thật (Sacca Kathā)
၇။ ပစ္စယ ကထာ
Luận về Nhân duyên (Paccaya Kathā)
၈။ အဘိညာ ကထာ
Luận về Thắng trí (Abhiññā Kathā)
၉။ ပရိညာ ကထာ
Luận về Trí hiểu biết (Pariññā Kathā)
၁၀။ တီရဏပရိညာ အကျယ်
Chi tiết về Trí phân biệt (Tīraṇa Pariññā)
၁၁။ ပဟာနပရိညာ အကျယ်
Chi tiết về Trí đoạn trừ (Pahāna Pariññā)
၁၂။ ဝိပဿနာလုပ်ငန်း
Công việc Thiền quán (Vipassanā Lực nghiệp)
နိဂုံး
Kết luận
မူလနိဒါန်း
Lời dẫn nhập
▬▬▬▬
ဗောဓနေယျံ ဇနံ ဒိသွာ၊
Nhìn thấy chúng sinh đáng được giác ngộ,
သတသဟဿေပိ ယောဇနေ။
Dù ở khoảng cách một trăm ngàn do–tuần.
ခဏေန ဥပဂန္တွာန၊
Trong khoảnh khắc, với lòng từ bi dẫn đầu, ngài đến gần,
ဗောဓေတိ တံ မဟာမုနိ။
Ngài khiến chúng sinh đáng được giác ngộ ấy giác ngộ.
(အပဒါန–ဋ္ဌ–ပ–၃၆)
(Apadāna–Ṭīkā, trang 36)
မဟာမုနိ – မုနိငါးမျိုး အစိုးရတော်မူသော မြတ်စွာဘုရားသခင်သည်၊
Mahāmuni – Đức Thế Tôn, bậc Đại Hiền Triết, người dẫn dắt năm loại ẩn sĩ,
ဗောဓနေယျံ – ကျွတ်ထိုက်သော၊
Bodhaneyyaṃ – đáng được giác ngộ,
ဇနံ – သတ္တဝါကို၊
Janaṃ – chúng sinh ấy,
ဒိသွာ – မြင်တော်မူသည်ရှိသော်၊
Disvā – khi nhìn thấy,
သတသဟဿေပိ ယောဇနေ – ယူဇနာတစ်သိန်း ခရီး၌လည်း၊
Satasahassepi yojane – dù ở khoảng cách một trăm ngàn do–tuần,
ခဏေန – ခဏချင်းဖြင့်၊
Khaṇena – trong khoảnh khắc,
ဥပဂန္တွာန – ကရုဏာရှေ့ထား ကြွသွားတော်မူ၍၊
Upagantvāna – với lòng từ bi dẫn đầu, ngài đến gần,
တံ – ထိုကျွတ်ထိုက်သော သတ္တဝါကို၊
Taṃ – chúng sinh đáng được giác ngộ ấy,
ဗောဓေတိ – ကျွတ်စေတော်မူ၏။
Bodheti – ngài khiến họ giác ngộ.
ဝေနေယျ သတ္တဝါ အပေါင်းတို့အား သနားတော်မူသော သဗ္ဗညု မြတ်စွာဘုရားသည် ကျွတ်ထိုက် သော သတ္တဝါ ရှိက ခရီးယူဇနာ တစ်သိန်းပင် ဝေးကွာ သော်လည်း ခဏချင်း ကြွသွားတော်မူ၍ သတ္တဝါတို့အား သစ္စာလေးပါးကို ပြ၍ ကိလေသာထောင် နှောင်အိမ် အတွင်းမှ ကျွတ်လွတ်စေတော် မူသကဲ့သို့၊
Đức Thế Tôn Toàn Tri, người thương xót tất cả chúng sinh đáng được thuần hóa, khi thấy chúng sinh đáng được giác ngộ, dù ở cách xa một trăm ngàn do–tuần, ngài lập tức đến gần trong khoảnh khắc và chỉ dạy bốn Chân lý, khiến chúng sinh thoát khỏi ngôi nhà giam cầm của hàng ngàn phiền não,
မုံရွာမြို့ လယ်တီ ဆရာတော် ဘုရားကြီးသည် တိုင်းရင်းသား ရဟန်း ရှင် လူ ခပ်သိမ်း သူတို့အား တရားရေအေး အမြိုက်ဆေးကို တိုက်ကျွေးတော်မူလျက်၊
Đại đức Ledi Sayadaw ở thành phố Monywa, đối với tất cả các dân tộc bản địa, các vị Tỳ–kheo, Sa–di, và mọi người, đã ban phát dòng nước pháp mát lành và liều thuốc quý giá,
မဂ်ဖိုလ် လိုလား အမျိုးသား တို့ ပွါးများရန် ဝိပဿနာဉာဏ်ကို နည်းမှန် ကျန ယထာဘူတ အနိစ္စသဘာဝ ဒုက္ခသဘာဝ အနတ္တသဘာဝ သင်္ခါရတို့ကို ညာတပရိညာဉ် တိရဏပရိညာဉ် ပဟာနပရိညာဉ် အစီအရင်တို့ဖြင့် အသိဉာဏ် ပွင့်လင်းကြစေခြင်းငှါ၊
hướng dẫn con đường đúng đắn để đạt được trí tuệ Vipassanā, giúp các thiện nam tín nữ khao khát Đạo và Quả hiểu rõ bản chất Vô thường, Khổ đau, và Vô ngã của các pháp hữu vi thông qua trí hiểu biết (Ñāta Pariññā), trí phân biệt (Tīraṇa Pariññā), và trí đoạn trừ (Pahāna Pariññā),
ဤ ဝိပဿနာ ဒီပနီကျမ်းကို စီရင်အားထုတ်တော် မူသတည်း။
Vì mục đích này, ngài đã nỗ lực soạn thảo cuốn sách Vipassanā Dīpanī này.
ယင်း ဝိပဿနာ ဒီပနီကျမ်းကို မဂ်ဖိုလ်လိုလား သပ္ပုရိသအပေါင်း သူတော်ကောင်းတို့အား ဤ ဘုရား သာသနာတော် တွင်း၌ပင် ကိလေသာ ၁၀–ပါးတို့တွင် အဆိုးဝါးဆုံး ဖြစ်သော ဒိဋ္ဌိ ကိလေသာ လျင်စွာကွာချုပ် လောကုတ္တရာ ဘုံသား ဖြစ်ကြစေရန် ထက်သန်သော စိတ်ဆန္ဒဖြင့်၊
Cuốn sách Vipassanā Dīpanī này được soạn thảo với tâm nguyện mãnh liệt rằng tất cả những thiện nam tín nữ khao khát Đạo và Quả, trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật, có thể nhanh chóng loại bỏ phiền não Tà kiến (Diṭṭhi Kilesa), phiền não nguy hiểm nhất trong mười loại phiền não, và trở thành những bậc thánh trong cảnh giới siêu thế (Lokuttara),
နေ့နေ့ညည ဝိရိယ သမ္မပ္ပဓာန် လေးတန်သော အင်္ဂါနှင့် ဝိပဿနာ မချွတ် ထွဋ်မြတ်သော တရားကို ပွါးများရွက်ဆောင် နိုင်ကြပါစေကုန်သတည်း။
với sự tinh tấn không ngừng ngày đêm, dựa trên bốn yếu tố của Chánh tinh tấn (Sammappadhāna), họ có thể thực hành và phát triển pháp thiền quán cao quý mà không hề chệch hướng.
၎င်းင်း ဝိပဿနာ ဒီပနီကျမ်းကို သမာဓိမျက်မှန်ဖြင့် ထက်သန်စွာ ကြည့်ရှုသွားပါလျှင် ဓမ္မရသ ဝိပဿနာ တရား အဝါးဝပြီးလျှင်၊
Nếu đọc cuốn sách Vipassanā Dīpanī này với con mắt của Định lực (Samādhi),
ဗောဓိပက္ခိယ ဓမ္မသောတ အထက်သို့ ဆန်လို တက်လိုသော စိတ်ထူး စိတ်မြတ်များ ပေါ်ပေါက်လာလိမ့်မည်၊
tâm hướng thượng, tâm cao quý, mong muốn tiến tới các pháp hỗ trợ giác ngộ (Bodhipakkhiya Dhamma) sẽ phát sinh,
ထိုအခါ ဗုဒ္ဓဘာသာ ခေါ်ဆိုလောက်၍ လူဖြစ်ကျိုး နပ်ပြီဟု မိမိကိုယ်ကို မိမိဝမ်းမြောက်နိုင်ရန် အချက်ကြီးတစ်ခု ဖြစ်ပါကြောင်း။
Lúc ấy, người đọc sẽ tự hào rằng mình xứng đáng được gọi là một Phật tử và cuộc đời làm người trở nên ý nghĩa.
ထို့ကြောင့် ဤဝိပဿနာ ဒီပနီကျမ်းကို ဝမ်းပန်းတသာ ပီတိဖြာ၍ မကွာနေ့ည စွဲလုလ္လဖြင့် အဖန်ဖန် အထပ်ထပ် မပြတ်ကြည့်ရှု သတိပြုတော်မူနိုင်ကြပါစေကုန်သတည်း။
Vì vậy, mong rằng tất cả mọi người sẽ vui mừng, tràn đầy hỷ lạc (Pīti), và với sự tinh cần không ngừng, sẽ đọc đi đọc lại cuốn sách này nhiều lần, luôn chú tâm tỉnh giác.
မူလနိဒါန်း ပြီး၏။
Lời dẫn nhập hoàn tất.
“ဝိပဿနာဒီပနီ”
“Vipassanā Dīpanī”
▬▬▬▬▬▬
နမော တဿ ဘဂဝတော အရဟတော သမ္မာသမ္ဗုဒ္ဓဿ။
Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc A–la–hán, Đấng Chánh Biến Tri.
၁ – ဝိပလ်လာသ ကထာ
1 – Luận về Sai lầm
ဝိပလ္လာသတရား ၃–ပါး
Ba loại Sai lầm
▬▬▬▬▬▬▬▬
ဝိပလ္လာသ ဆိုသည်ကား ဖောက်ပြန်မှားယွင်းခြင်းတည်း။
Vipallāsa nghĩa là sự sai lệch, méo mó.
ဟုတ်သည် မှန်သည်၌ မဟုတ်မမှန်ဟု မှားယွင်းခြင်း၊
Cho rằng cái đúng, cái thật là không đúng, không thật,
မဟုတ်မမှန်သည်၌ ဟုတ်သည် မှန်သည်ဟု မှားယွင်းခြင်းတည်း။
Và cho rằng cái không đúng, không thật là đúng, là thật.
ဝိပလ္လာသသည် –
Vipallāsa có –
(၁) သညာဝိပလ္လာသ တစျပါး
(1) Sai lầm về tri giác (Saññā Vipallāsa)
(၂) စိတ်တဝိပလ္လာသ တစျပါး
(2) Sai lầm về tâm ý (Citta Vipallāsa)
(၃) ဒိဋ္ဌိဝိပလ္လာသ တစ်ပါး ဟူ၍ သုံးပါးရှိ၏။
(3) Sai lầm về tà kiến (Diṭṭhi Vipallāsa), ba loại.
သညာဝိပလ္လာသ ဆိုသည်ကား အမှတ်မှားခြင်းတည်း။
Saññā Vipallāsa nghĩa là sự nhận thức sai lầm.
ထိုအမှတ်မှားခြင်းသည် လေးပါးရှိ၏။
Sự nhận thức sai lầm này có bốn loại:
က။ အနိစ္စ၌ နိစ္စဟု အမှတ်မှားခြင်းတစ်ပါး
a. Nhận thức sai lầm rằng cái Vô thường (Anicca) là Thường (Nicca).
ခ။ အသုဘ၌ သုဘဟု အမှတ်မှားခြင်းတစ်ပါး
b. Nhận thức sai lầm rằng cái Xấu xí (Asubha) là Đẹp (Subha).
ဂ။ ဒုက္ခ၌ သုခဟု အမှတ်မှားခြင်းတစ်ပါး
c. Nhận thức sai lầm rằng cái Khổ (Dukkha) là Lạc (Sukha).
ဃ�। အနတ္တ၌ အတ္တဟု အမှတ်မှားခြင်းတစ်ပါး။
d. Nhận thức sai lầm rằng cái Vô ngã (Anatta) là Ngã (Atta).
ထို သုံးပါးတို့တွင် –
Trong ba loại Sai lầm này:
၁။ သညာ ဝိပလ္လာသ၌ တောသမင်ဥပမာ ဆိုသည်ကား တစ်ခုသော တောကြီးအလယ်၌ စပါးခင်း လုပ်ကိုင်၍ထား၏၊
Saññā Vipallāsa – Ví dụ về loài hươu rừng: Trong một khu rừng lớn, có một cánh đồng lúa được canh tác,
တောသမင်တို့သည် လယ်ရှင်ယောက်ျား မရှိစဉ် ထိုစပါးခင်းသို့ လာ၍ အသီးအနှံတို့ကို စားတတ် ကြ၏၊
Những con hươu rừng thường đến ăn các loại cây trồng khi người nông dân không có mặt,
လယ်ရှင်သည် တောသမင်တို့ကို ကြောက်လန့်စေခြင်းငှါ မြက်ခြောက်တို့ကို လူရုပ်သဏ္ဌာန် ပြုလုပ်၍ စပါးခင်း အလယ်၌ စိုက်ထား၏၊
Để làm cho hươu rừng sợ hãi, người nông dân dựng một hình nộm bằng cỏ khô giữa cánh đồng,
ထိုလူရုပ်၌ မြက် ခြောလျှော်ဖြင့်ဖွဲ့စည်း၍ ကိုယ်သဏ္ဌာန် ဦးခေါင်း သဏ္ဌာန် လက်ခြေ သဏ္ဌာန် လုပ်၏၊
tạo hình giống con người, với thân, đầu, tay, chân được làm từ cỏ khô buộc bằng dây thừng,
အိုးငယ်ကို ထုံးဖြူဖြင့် မျက်နှာသဏ္ဌာန် ရေး၍ ဦးခေါင်း၌ စွပ်ထား၏။
Một chiếc nồi nhỏ được vẽ mặt người bằng vôi trắng và đội lên đầu hình nộm.
အဝတ်ဟောင်း၊ အင်္ကျီ ဟောင်းတို့ကို ဝတ်စွပ်၍ထား၏၊
Hình nộm được mặc quần áo cũ, áo khoác cũ,
လက်တို့၌ လေးမြှားတို့ကို ကိုင်စွဲ၍ထား၏၊
và cầm cung tên trong tay,
တောသမင်တို့သည် ထိုစပါးခင်းသို့ စားအံ့သောငှါ လာကြကုန်ရာ ထိုလူရုပ်ကို မြင်ကြလျှင် လူမဟုတ်သည်၌ လူအဟုတ် ထင်မှတ် ကြောက်လန့်၍ ပြေးကြကုန်၏။
Khi hươu rừng đến cánh đồng để ăn, chúng thấy hình nộm này, tưởng là người thật, sợ hãi và bỏ chạy.
ဤဥပမာတွင် တောသမင်တို့၌ ပကတိသော လူ၏ အသွင်ကို ရှေး၌ မှတ်ရင်းရှိ၏၊
Trong ví dụ này, hươu rừng đã quen thuộc với hình dáng thực của con người từ trước,
ထိုအမှတ် အတိုင်း မြက်ရုပ်ကို လူဟူ၍ မှတ်ပြန်၏၊ အမှတ်မှား၏၊
Khi thấy hình nộm bằng cỏ, chúng nhầm tưởng là người thật và sợ hãi,
သညာ ဝိပလ္လာသသည် ဤတောသမင် ဥပမာနှင့်တူ၏၊
Sự nhận thức sai lầm này giống như Saññā Vipallāsa,
အလွန် တိမ်ကော၏၊
Nó rất nông cạn,
မျက်စိလည်သောသူသည် နေထွက်နေဝင် ကြောင်ကြောင် မြင်လျက်နှင့် မှားသကဲ့သို့ ကြောင်ကြောင် မြင်လျက်နှင့် မှားတတ်၏၊
giống như người bị hoa mắt thấy mọi thứ mờ mịt dù nhìn rõ ràng, nhưng khi nhầm lẫn thì sự nhầm lẫn ấy rất kiên cố,
မှားမိပြန်လျှင် အလွန် ခိုင်မြဲတတ်၏၊ ပြောင်းလွဲ၍ မရနိုင် ရှိတတ်၏။
khó thay đổi.
ကိုယ်ခန္ဓာတို့၌ အသုဘ အချက် အနိစ္စ ဒုက္ခ အနတ္တ အချက်များသည် ကိုယ်တွေ့မျက်မြင် ထင်ရှားသည်လည်း အလွန်များ၏၊
Trong thân thể, các đặc tính Vô thường, Khổ, Vô ngã, và Xấu xí hiển nhiên rõ ràng,
ကြောင်ကြောင် မြင်မျိုးပင်ဖြစ်၏၊
nhưng do Saññā Vipallāsa,
သညာဝိပလ္လာသသည် တောသမင် ကဲ့သို့ ကြောင်ကြောင် မြင်လျက်နှင့် မှားတတ်၏။
người ta vẫn nhìn thấy sai lệch, giống như hươu rừng nhầm lẫn dù thấy rõ ràng.
၂။ စိတ္တ ဝိပလ္လာသ၌ မျက်လှည့်ကြီး ဥပမာ ဆိုသည်ကား မျက်လှည့်ကြီး ပညာမျိုးသည်ရှိ၏၊
2. Citta Vipallāsa – Ví dụ về ảo thuật: Có một loại kỹ năng ảo thuật,
ထိုပညာဖြင့် ပြုလုပ်၍ ပြသည်ရှိသော် ကြည့်မြင်သူ လူအများတို့သည် မြေစိုင်ခဲ စသည်ကို ရွှေခဲ ငွေခဲ စသည် ထင်မြင်ကြကုန်၏၊
Khi sử dụng kỹ năng này để biểu diễn, người xem thấy đất đá bình thường tưởng là vàng bạc,
မျက်လှည့်ပညာ၏ အစွမ်းသည်လူတို့၏ ပကတိသော မျက်စိမြင်မှုကို ဖျက်၍ မျက်စိမြင်မှု တစ်မျိုး ပြောင်းလဲစေနိုင်၏၊
Sức mạnh của ảo thuật có thể làm sai lệch nhận thức tự nhiên của con người,
တစ်ခဏအားဖြင့် စိတ်ကို ဖောက်ပြန်စေနိုင်၏၊
khiến họ thấy khác đi trong khoảnh khắc, làm cho tâm ý bị méo mó,
ပကတိ အခါ၌ မြေစိုင်ခဲကို မြေစိုင်ခဲအတိုင်း မြင်ကြကုန်၏၊
Bình thường, họ thấy đất đá đúng như bản chất của nó,
ထိုအခါ မြေစိုင်ခဲကို ဝါဝါဝင်းဝင်း ရွှေအဆင်း၊ ဖြူဖြူလင်းလင်း ငွေအဆင်း အနေနှင့် မြင်ကြကုန်၏၊
Nhưng dưới ảnh hưởng của ảo thuật, họ thấy đất đá như vàng sáng lấp lánh hay bạc trắng tinh khiết,
ရွှေဟူ၍ ငွေဟူ၍ ယုံကြည်ခြင်း မှားယွင်းကြကုန်၏။
và tin rằng đó là vàng, là bạc, dẫn đến sự sai lầm trong niềm tin.
ဤ ဥပမာနှင့်တူစွာ စိတ်သည် မဟုတ်သည်ကို အဟုတ် လုပ်ကြံ၍ လှည့်စားတတ်၏၊
Tương tự, tâm ý (Citta) có thể bịa đặt, lừa dối, khiến cái không thật trở thành thật,
ညဉ့်အခါ သစ်ငုတ်ကို မြင်လေရာ လူဟူ၍ လှည့်စား၏၊
Vào ban đêm, thấy gốc cây tưởng là người,
တောချုံကို မြင်လေရာ တောဆင်ဟူ၍ လှည့်စား၏၊
thấy bụi cây tưởng là voi rừng,
တောဆင်ကို မြင်လေရာ တောချုံဟူ၍ လှည့်စား၏၊
hay thấy voi rừng tưởng là bụi cây,
လောက၌ ဒိဋ္ဌမျက်မြင်ထဲတွင် အထင်မှားသမျှ သည် စိတ်၏ လှည့်စားမှုချည်း မှတ်။
Tất cả những sự nhầm lẫn trong thế gian đều là do tâm ý lừa dối.
စိတ္တ ဝိပလ္လာသသည် မဟုတ်သည်�ကို အဟုတ် လုပ်ကြံ၍ လှည့်စားတတ် သောကြောင့် သညာ ဝိပလ္လာသထက် နက်နဲ၏။
Citta Vipallāsa khiến cái không thật trở thành thật, do đó nó sâu sắc hơn Saññā Vipallāsa.
သို့ရာတွင် အကြောင်းယုတ္တိနှင့် ဖြေဖျောက်လျှင် ပြေပျောက်လွယ်၏။
Tuy nhiên, khi được giải thích bằng lý trí, nó dễ dàng được xóa bỏ,
သညာကဲ့သို့ မခိုင်မြဲတတ်။
không kiên cố như Saññā Vipallāsa.
၃။ ဒိဋ္ဌိ ဝိပလ္လာသ၌ လမ်းမှားကြီး ဥပမာဆိုသည်ကား တစ်ခုသော တောကြီးသည်ရှိ၏၊
3. Diṭṭhi Vipallāsa – Ví dụ về con đường sai lầm: Có một khu rừng lớn,
ထိုတောကြီး၌ ဘီလူးခေါ်သော နတ်ဆိုးတို့သည် မြို့ရွာ တည်ထောင်၍နေကြကုန်၏၊
trong đó có những con quỷ gọi là Yakkha (nạt–sô) dựng nên một thành phố,
နတ်ဆိုးတို့သည် မိမိတို့ မြို့ရွာကို နတ်မြို့ နတ်ရွာကဲ့သို့ လည်းကောင်း မိမိတို့ ကိုယ်ကို နတ်သမီး နတ်သားတို့ကဲ့သို့ လည်းကောင်း ဖန်ဆင်းကြကုန်ပြီးလျှင်၊
Các con quỷ biến thành phố của chúng trông như thành phố của chư thiên, biến bản thân chúng trông như thiên nam, thiên nữ,
လမ်းကိုလည်း နတ်လမ်းကဲ့သို့ သာယာစွာ ဖန်ဆင်းကြ ကုန်၏၊
và biến con đường trông như con đường thần tiên đầy mê hoặc,
ခရီးသည် တို့သည် ထိုလမ်းကို တွေ့မြင်ကြရာ မြို့ကြီးရွာကြီးသို့ သွားသောလမ်းဟု ယုံကြည်ကြကုန်သဖြင့် လမ်းရိုး လမ်းမှန်ကို စွန့်လွှတ်ကြကုန်ပြီးလျှင်၊
Các lữ khách thấy con đường này, tin rằng nó dẫn đến một thành phố lớn, liền bỏ con đường đúng để đi theo con đường sai lầm này,
ထိုလမ်းဆိုး လမ်းမှားကြီးသို့ လိုက်သွားကြ လေကုန်၏၊
Khi đến thành phố của quỷ,
နတ်ဆိုးတို့၏ မြို့ရွာသို့ ရောက်ကြကုန် သောအခါ လူကောင်း သူကောင်းတို့၏ မြို့ရွာဟု ထင်မှတ်ကြကုန်၍ ယုံကြည်စိတ်ချ အိပ်နေကြကုန်၏၊
họ tưởng đó là thành phố của người tốt, yên tâm ngủ nghỉ,
နတ်ဆိုးတို့သည် ညဉ့်အခါ၌ ထိုသူတို့၏ ကိုယ်ခန္ဓာ အတွင်းသို့ ပူးဝင်ကြကုန်ပြီးလျှင် အသည်း အဆုပ် နှလုံးသည်းပွတ်တို့၌ ကိုက်၍ တစ်ကိုယ်လုံးမှ အသွေးအဆီ တို့ကို စုတ်ယူ မျိုသောက် ကြကုန်၏၊
Vào ban đêm, quỷ nhập vào cơ thể họ, cắn xé gan, phổi, tim, và hút máu,
ထိုခရီးသည်တို့သည် သေဆုံးကြ လေကုန်၏။
khiến họ chết.
ဤဥပမာ၌ …
Trong ví dụ này:
ကာမဘုံ ရူပဘုံ အရူပဘုံဟူသော ဘုံသုံးပါးသည် ၎င်းတောကြီးနှင့် တူ၏၊
Ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) giống như khu rừng lớn,
ဤသတ္တဝါ တို့သည် ၎င်းခရီးသည်တို့နှင့် တူကုန်၏၊
Chúng sinh giống như các lữ khách,
သမ္မာဒိဋ္ဌိ အယူသည် လမ်းရိုးလမ်းမှန်နှင့်တူ၏၊
Chánh kiến (Sammādiṭṭhi) giống như con đường đúng,
မိစ္ဆာဒိဋ္ဌိ အယူမျိုးသည် လမ်းဆိုးလမ်းမှားကြီးနှင့်တူ၏။
Tà kiến (Micchādiṭṭhi) giống như con đường sai lầm.
ဤစကား၌ သမ္မာဒိဋ္ဌိသည် –
Trong lời này, Chánh kiến được chia thành:
(က) လောကီသမ္မာဒိဋ္ဌိ
a) Chánh kiến thế gian (Lokiya Sammādiṭṭhi)
(ခ) ဗောဓိပက္ခိယသမ္မာဒိဋ္ဌိ ဟူ၍ နှစ်ပါးရှိ၏။
b) Chánh kiến hỗ trợ giác ngộ (Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi)
ထိုနှစ်ပါးတို့တွင် –
Trong hai loại này:
မိမိပြုသော ကုသိုလ်ကံ အကုသိုလ်ကံ သည်သာလျှင် ဘဝသံသရာ၌ အစဉ်ပါသော ကိုယ်ပိုင်ဥစ္စာ မှန်ချေသည်ဟု ယူသော ကမ္မဿကတာ သမ္မာဒိဋ္ဌိသည် လောကီသမ္မာဒိဋ္ဌိ မည်၏၊
Là quan niệm rằng chỉ có nghiệp thiện và nghiệp ác là tài sản riêng đi theo chúng sinh qua các kiếp sống, được gọi là Kammassakatā Sammādiṭṭhi (Chánh kiến về quyền sở hữu nghiệp),
ပဋိစ္စသမုပ္ပါဒ် နှင့်တကွ ခန္ဓာ အာယတန အနတ္တတို့ကို သိမြင်သော ဉာဏ်သည် ဗောဓိပက္ခိယ သမ္မာဒိဋ္ဌိ မည်၏။
Là trí tuệ hiểu biết về Duyên khởi (Paṭiccasamuppāda), các uẩn, các xứ, và bản chất Vô ngã, được gọi là Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi.
ထိုနှစ်ပါးတို့တွင် ဝဋ္ဋပက္ခ၌ ကမ္မဿကတာ သမ္မာဒိဋ္ဌိသည် လမ်းရိုး လမ်းမှန်ကြီးနှင့် တူ၏၊
Về phía vòng luân hồi (Vaṭṭa), Kammassakatā Sammādiṭṭhi giống như con đường đúng,
လူ့ပြည် နတ်ပြည် ဗြဟ္မာ့ပြည်ဟူသော သုဂတိဘုံများသည် လူကောင်းသူကောင်းတို့၏ မြို့ရွာနှင့် တူ၏။
dẫn đến các cõi thiện (như cõi người, cõi trời, cõi Phạm thiên), giống như thành phố của người tốt.
ကုသိုလ်ကံ အကုသိုလ်ကံကိုလည်းကောင်း၊ ကုသိုလ်ကံ အကုသိုလ်ကံ၏ အကျိုးကိုလည်းကောင်း ပစ်ပယ်သော နတ္ထိကဒိဋ္ဌိ အဟေတုကဒိဋ္ဌိ အကိရိယဒိဋ္ဌိ များသည် လမ်းဆိုးလမ်းမှားကြီးနှင့် တူ၏၊
Những tà kiến như Natthikadiṭṭhi (hư vô luận), Ahetukadiṭṭhi (vô nhân luận), Akiriyadiṭṭhi (vô tác luận), phủ nhận nghiệp thiện, nghiệp ác và quả của chúng, giống như con đường sai lầm,
ငရဲပြည် တိရစ္ဆာန်ပြည် ပြိတ္တာပြည် အသုရကာယ်ပြည်ဟူသော ဒုဂ္ဂတိဘုံများသည် နတ်ဆိုးတို့၏ မြို့ရွာနှင့် တူ၏။
dẫn đến các cõi ác (như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a–tu–la), giống như thành phố của quỷ.
ဝိဝဋ္ဋပက္ခ၌မူကား ဗောဓိပက္ခိယ သမ္မာဒိဋ္ဌိသည် လမ်းရိုး လမ်းမှန်ကြီးနှင့် တူ၏၊
Về phía thoát ly luân hồi (Vivaṭṭa), Bodhipakkhiya Sammādiṭṭhi giống như con đường đúng,
နိဗ္ဗာန်သည် လူကောင်း သူကောင်းတို့၏ မြို့ရွာနှင့် တူ၏။
dẫn đến Niết–bàn, giống như thành phố của người tốt.
မိမိခန္ဓာကိုယ်ကို ငါ၏အတ္တဟု စွဲလမ်းသော အတ္တဒိဋ္ဌိ သက္ကာယဒိဋ္ဌိသည် လမ်းဆိုးလမ်းမှားကြီး နှင့်တူ၏၊
Tà kiến cho rằng thân thể là “cái tôi” (Attadiṭṭhi, Sakkāyadiṭṭhi) giống như con đường sai lầm,
လူ့ပြည် နတ်ပြည် ဗြဟ္မာ့ ပြည်နှင့်တကွသော သံသရာ လောကကြီးသည် နတ်ဆိုးတို့၏ မြို့ရွာနှင့် တူ၏။
dẫn đến toàn bộ thế giới luân hồi (cõi người, cõi trời, cõi Phạm thiên), giống như thành phố của quỷ.
ဤဝိဝဋ္ဋပက္ခ၌ အတ္တဒိဋ္ဌိ သက္ကာယဒိဋ္ဌိကိုပင် ဒိဋ္ဌိဝိပလ္လာသ ဆို၏၊
Trong Vivaṭṭa, Attadiṭṭhi và Sakkāyadiṭṭhi được gọi là Diṭṭhi Vipallāsa,
ဤ ဒိဋ္ဌိဝိပလ္လာသသည် စိတ္တဝိပလ္လာသထက် နက်နဲ၏၊ အလွန်လည်း ခိုင်မြဲ၏။
Loại Sai lầm này sâu sắc hơn Citta Vipallāsa và cực kỳ kiên cố.
ဝိပလ္လာသကထာ ပွီး၏။
Luận về Sai lầm hoàn tất.
၂ – မညနာကထာ
2 – Luận về Tà niệm
မညနာတရား ၃ ပါး
Ba loại Tà niệm
▬▬▬▬▬▬▬
မညနာဆိုသည်ကား အထင်ကြီးခြင်းတည်း၊
Maññanā nghĩa là sự tưởng lầm, phóng đại,
ဟုတ်မှန်သည်ထက် ပိုလွန်၍ ထင်ခြင်းတည်း၊
Nó là sự tưởng tượng vượt quá sự thật,
အဝိဇ္ဇာအတွက်ကြောင့် ဝိပလ္လာသတရား ဖြစ်ပွါး၏၊
do vô minh (Avijjā) mà sinh ra Sai lầm (Vipallāsa),
ဝိပလ္လာသတရား အတွက်ကြောင့် အထင်ကြီးခြင်း ဖြစ်ပွါး၏။
và từ Sai lầm này sinh ra sự tưởng lầm.
ထိုမညနာသည် –
Maññanā có –
(၁) တဏှာမညနာ တစ်ပါး၊
(1) Tham ái Tà niệm (Taṇhā Maññanā),
(၂) မာနမညနာ တစ်ပါး၊
(2) Ngã mạn Tà niệm (Māna Maññanā),
(၃) ဒိဋ္ဌိမညနာ တစ်ပါး ဟူ၍ သုံးပါးရှိ၏။
(3) Tà kiến Tà niệm (Diṭṭhi Maññanā), ba loại.
ထိုသုံးပါးတွင် –
Trong ba loại này:
(၁) တဏှာမညနာ ဆိုသည်ကား ငါ၏ ပိုင်ရာဆိုင်ရာ မဟုတ်သည်၌ ငါ၏ ပိုင်ရာဆိုင်ရာဟုတ်၏ဟု ခင်တွယ်မှုနှင့် အထင်ကြီးခြင်းတည်း၊
(1) Taṇhā Maññanā: Là sự bám víu và tưởng lầm rằng những gì không thuộc về mình là “của tôi”,
အမှန်အားဖြင့် ငါဟူ၍ပင် မရှိ၊
Thực tế, không có cái “tôi”;
ငါဟူ၍ မရှိလျှင် ငါ၏ ပိုင်ရာဆိုင်ရာဟူ၍ မရှိ�،
nếu không có cái “tôi”, thì không có cái “của tôi”,
ထိုသို့ မရှိပါဘဲလျက် အဇ္ဈတ္တဝတ္ထု တို့၌လည်းကောင်း ဗဟိဒ္ဓဝတ္ထု တို့၌လည်းကောင်း “ဤသည်ကား ငါ၏ပိုင်ရာတည်း၊ ဤသည်ကား ငါ၏ပိုင်ရာမဟုတ်၊ ဤသည်ကား ငါ၏ဆိုင်ရာတည်း၊ ဤသည်ကား ငါ၏ဆိုင်ရာ မဟုတ်” ဟူ၍ ငါ၏ပိုင်ရာ ဆိုင်ရာ အနေနှင့် စိတ်ထဲတွင် ကွက်ခြားမှုကြီး အထင်အစွဲ ရှိနေခြင်းသည် တဏှာမညနာ မည်၏။
Dù vậy, đối với các đối tượng nội tại (Ajjhatta Vatthu) và ngoại tại (Bahiddha Vatthu), người ta vẫn phân biệt trong tâm rằng “Đây là của tôi, đây không phải của tôi; đây thuộc về tôi, đây không thuộc về tôi”, dẫn đến sự bám víu và tưởng lầm lớn lao, được gọi là Taṇhā Maññanā.
အဇ္ဈတ္တဝတ္ထု ဆိုသည်ကား မိမိ၏ကိုယ်ခန္ဓာ မိမိ၏ဦးခေါင်း ခြေ လက် မိမိ၏မျက်စိ နား နှာခေါင်း လျှာ ကိုယ်တွင်းကိုယ်ပ စသော အဇ္ဈတ္တဝတ္ထုဟူသမျှတို့ကို ငါ၏ ပိုင်ရာဟူ၍ ခင်တွယ်စွဲလမ်း၍ အထင်ကြီးခြင်းသည် တဏှာမညနာ မည်၏။
Ajjhatta Vatthu: Là sự bám víu và tưởng lầm rằng thân thể, đầu, chân, tay, mắt, tai, mũi, lưỡi, các cơ quan nội tạng của mình là “của tôi”, được gọi là Taṇhā Maññanā.
ဗဟိဒ္ဓဝတ္ထု ဆိုသည်ကား မိမိ၏သား သမီး ခင်ပွန်း မယား ဆွေမျိုး မိတ်ဆွေ ဥစ္စာဓန စသော ဗဟိဒ္ဓဝတ္ထု ဟူသမျှတို့ကို ငါ၏ ပိုင်ရာဟူ၍ ခင်တွယ်စွဲလမ်း၍ အထင်ကြီးခြင်းသည်လည်း တဏှာမညနာ မည်၏။
Bahiddha Vatthu: Là sự bám víu và tưởng lầm rằng con cái, vợ chồng, họ hàng, bạn bè, tài sản của mình là “của tôi”, cũng được gọi là Taṇhā Maññanā.
ဤသို့ တဏှာမညနာ ဖြစ်ပေါ်လာသည်ကို အာရုံပြု၍ ထိုတဏှာမညနာ အကြောင်းကို မဆင်ခြင်မရှုမြင်ဘဲ အဆုံးမထိအောင် တဏှာမညနာ၏ အစွမ်းဖြင့် လွှမ်းမိုးခံရလျှင် ထိုသူသည် တဏှာမညနာ၏ အစွမ်းဖြင့် သံသရာဝဋ်ဆင်းရဲ၌ နစ်မြှုပ်နေရလေသည်။
Khi Taṇhā Maññanā khởi sinh, nếu không chú ý và không suy xét nguyên nhân của nó, mà để bị chi phối hoàn toàn bởi sức mạnh của Taṇhā Maññanā, thì người đó sẽ chìm đắm trong đau khổ của vòng luân hồi do sức mạnh của Taṇhā Maññanā.
(၂) မာနမညနာ ဆိုသည်ကား မိမိ၌ ဂုဏ်အင်္ဂါဟူ၍ မရှိသည်၌ ဂုဏ်အင်္ဂါဟူ၍ ရှိသည်ဟု ထင်မှတ်၍ မာနထောင်လွှားခြင်းတည်း။
(2) Māna Maññanā: Là sự kiêu mạn, tưởng lầm rằng mình có những phẩm chất hay đặc điểm ưu việt trong khi thực tế không có, dẫn đến sự ngã mạn, tự cao.
ဤမာနမညနာသည် အဝိဇ္ဇာကြောင့်ဖြစ်ပေါ်လာရ၍ အဝိဇ္ဇာတရား၏ အစွမ်းဖြင့် လွှမ်းမိုးခံရလျှင် ထိုသူသည် မာနမညနာ၏ အစွမ်းဖြင့် သံသရာဝဋ်ဆင်းရဲ၌ နစ်မြှုပ်နေရလေသည်။
Māna Maññanā khởi sinh do vô minh (Avijjā), và nếu bị chi phối bởi sức mạnh của vô minh, người đó sẽ chìm đắm trong đau khổ của vòng luân hồi do sức mạnh của Māna Maññanā.
(၃) ဒိဋ္ဌိမညနာ ဆိုသည်ကား မိမိခန္ဓာကိုယ်ကို ငါဟူ၍ အထင်ကြီးခြင်း၊ မိမိ၏အတ္တဟူ၍ အထင်ကြီးခြင်းတည်း။
(3) Diṭṭhi Maññanā: Là sự tưởng lầm, phóng đại rằng thân thể mình là “cái tôi”, xem nó là tự ngã (Atta) của mình.
ဤဒိဋ္ဌိမညနာသည် အဝိဇ္ဇာကြောင့် ဖြစ်ပေါ်လာရ၍ အဝိဇ္ဇာတရား၏ အစွမ်းဖြင့် လွှမ်းမိုးခံရလျှင် ထိုသူသည် ဒိဋ္ဌိမညနာ၏ အစွမ်းဖြင့် သံသရာဝဋ်ဆင်းရဲ၌ နစ်မြှုပ်နေရလေသည်။
Diṭṭhi Maññanā khởi sinh do vô minh (Avijjā), và nếu bị chi phối bởi sức mạnh của vô minh, người đó sẽ chìm đắm trong đau khổ của vòng luân hồi do sức mạnh của Diṭṭhi Maññanā.
ဤသို့လျှင် တဏှာမညနာ မာနမညနာ ဒိဋ္ဌိမညနာဟူသော မညနာတရား သုံးပါးတို့သည် အဝိဇ္ဇာကြောင့်ဖြစ်ပေါ်လာရ၍ ဝိပလ္လာသတရား၏ အစွမ်းဖြင့် လွှမ်းမိုးခံရလျှင် သံသရာဝဋ်ဆင်းရဲ၌ နစ်မြှုပ်နေရလေသည်။
Như vậy, ba loại Tà niệm – Taṇhā Maññanā, Māna Maññanā, và Diṭṭhi Maññanā – khởi sinh do vô minh và bị chi phối bởi sức mạnh của Sai lầm (Vipallāsa), khiến chúng sinh chìm đắm trong đau khổ của vòng luân hồi.
မညနာကထာ ပြီး၏။
Luận về Tà niệm hoàn tất.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
