Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã
Bài 3 – Tà kiến về Jīva Attā Tiểu Ngã và Parama Attā Đại Ngã. Căn Nguyên Của Niềm Tin Có Tạo Hóa và Sự Luyến Ái Bám Vào Tự Ngã.
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=10230464484501289&id=1394710113&mibextid=Nio
–––––––––––––––
🔹Jīva Attā Và Parama Attā
Những người tin theo chủ thuyết có tự ngã nói rằng có hai loại bản ngã: jīva attā và parama attā.
Theo những người nầy mỗi cá nhân được cấu tạo, người, trời (deva), hay thú đều có một tự ngã, một linh hồn hay thể chất gọi là jīva attā, khởi nguyên của đời sống.
Khởi nguyên của đời sống ấy thường được tin tưởng là do Thần Linh Tạo Hóa sáng tạo, và vài giáo thuyết chủ trương rằng những khởi nguyên đời sống cá nhân ấy, hay tiểu hồn, là một phần nhỏ của attā to lớn (đại hồn) và xuất phát từ đại hồn của đấng Thần Linh.
Parama attā là “Ðại Ngã”, hay “Ðại Hồn”, của đấng Thần Linh Tạo Hóa, người tạo nên thế gian cùng với tất cả những sinh vật.
Theo vài người thì “Ðại Hồn” ấy thấm nhuần toàn thể thế gian, nhưng có những người khác chủ trương rằng đấng Thần Linh Tạo Hóa ngự trên một Cảnh Trời.
Những ý niệm về tiểu hồn và Ðại Hồn dĩ nhiên là giả thuyết. Không ai đã gặp hay đã thấy vị Thần Linh hiện thân của Ðại Hồn.
Niềm tin nơi sự hiện hữu của một Thần Linh, một đấng Tạo Hóa tạo nên muôn loài vạn vật, đã có trước khi Ðức Phật chứng đắc Ðạo Quả Phật. Niềm tin nầy rõ ràng xuất nguyên từ câu chuyện vị Phạm Thiên Baka.
Vào một thời nọ, Ðức Thế Tôn ngự đến cảnh giới Phạm Thiên để rọi sáng niềm tin sai lầm của Ðức Phạm Thiên Baka.
Khi Ðức Phật đến thì Phạm Thiên Baka đón mừng và tán dương:
“Tôi xin tôn kính chào mừng Ðức Gotama, Ngài đến đây là một điều rất tốt mặc dầu đã muộn màng. Cảnh giới Phạm Thiên nầy là thường còn, là ổn định vững bền, vĩnh cửu trường tồn, toàn hảo trên mọi phương diện. Và ở đây không có người chết hay viên tịch, qua đời.”
Ðáp lời tuyên ngôn nầy Ðức Thế Tôn sửa sai vị Phạm Thiên Baka như sau:
– Này chư Phạm Thiên! Phạm Thiên Baka quả thật lầm lạc. Trong trạng thái lầm lạc si mê, Phạm Thiên Baka mô tả cảnh giới vô thường của mình là thường còn và ổn định.
Vào lúc ấy một vị Phạm Thiên tùy tùng của Ðức Phạm Thiên Baka phẫn nộ trả lời:
– “Này Ðức Gotama, không nên nói nghịch với Phạm Thiên Baka, không nên sửa sai Ngài.
Ðức Phạm Thiên Baka là vị Ðại Phạm Thiên, là vị lãnh đạo của chư Phạm Thiên, Người Chinh Phục Tất Cả, Người Không Thể Chiến Bại, bậc Toàn Giác, Toàn Tri, thấy và hiểu biết tất cả;
Ngài có nhiều oai lực và cầm quyền tối thượng trên tất cả tạo vật;
Ngài là người tạo nên thế gian, người sáng tạo toàn thể thế gian, là bậc Thánh cao thượng hơn tất cả;
Ngài định đoạt số phận của mọi người – vua chúa, Phạm Thiên, người, Trời, và thú – những địa vị trong thế gian;
Ngài thành tựu mọi chứng đắc, là Cha của tất cả chúng sanh trong quá khứ và vị lai!”
Vị Phạm Thiên ca tụng những phẩm hạnh của Phạm Thiên Baka như thế.
Trong kinh Brahmajāla Sutta, Phạm Võng, khi giải thích căn nguyên của tà kiến thường còn (thường kiến), Ðức Phật thuật lại một câu chuyện tương tự về Phạm Thiên.
🔹Căn Nguyên Của Niềm Tin Có Tạo Hóa
–––––––––––––––
Theo bài kinh nầy, khi một hệ thống thế gian trôi qua, vào một lúc sau đó một hệ thống thế gian mới sẽ bắt đầu vận chuyển đến.
Vị Phạm Thiên của hệ thống thế gian trước xuất hiện và nghĩ:
“Ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên, Người Chinh Phục Không Thể Chiến Bại, bậc Toàn Giác, Toàn Tri, là Chúa, là người Làm Ra, người Tạo Nên, bậc Thánh Cao Thượng Hơn Tất Cả, là người Ðịnh Ðoạt Số Phần của tất cả, người đã thành tựu mọi chứng đắc, là Cha của tất cả chúng sanh trong quá khứ và vị lai.”
Những vị Phạm Thiên đến sau cũng nghĩ rằng mình là vị Ðại Phạm Thiên.
Trong số những vị Phạm Thiên đã viên tịch từ cảnh giới Phạm Thiên và tái sanh vào cảnh người, có vài vị còn có thể hồi nhớ kiếp sống của mình trong cảnh Phạm Thiên.
Những vị nầy bạo dạn quả quyết rằng “Ðại Phạm Thiên tạo chúng sanh trong thế gian. Chính vị Tạo Hóa, vị Ðại Phạm Thiên, là thường còn, vĩnh viển trường tồn; nhưng những tạo vật mà Ngài đã tạo nên thì không thường còn, họ phải qua đời, chết.”
Những người nghe lời bạo dạn được tuyên ngôn xuyên qua kinh nghiệm bản thân ấy, sẵn sàng tin tưởng và chấp nhận.
Ðức Thế Tôn giải thích rằng đó là nguyên do vì sao có ý niệm rằng “chỉ có vị Tạo Hóa, người tạo nên sự vật, là thường còn”.
Từ những đoạn vừa trích dẫn trên ta có thể phỏng đoán rằng cái được gọi là Ðấng Thượng Ðế, vị Thần Linh đã tạo nên tất cả chúng sanh, vị Tạo Hóa được nói là ở trên một Cảnh Trời, có thể là vị Ðại Phạm Thiên đã xuất hiện đầu tiên ở cảnh giới Phạm Thiên vào lúc sơ khai của hệ thống thế gian.
Ta cũng có thể nói rằng parama attā, Ðại Ngã, hay Ðại Hồn, là tự ngã, cái “ta” của vị Ðại Phạm Thiên ấy.
Lời dạy của Ðức Phật cho thấy rõ ràng rằng parama attā, cái Ðại Hồn ấy của vị Ðại Phạm Thiên, trên căn bản là một với cái jīva attā, tiểu hồn, của những chúng sanh khác; đó chỉ là luồng trôi chảy liên tục của tiến trình danh và sắc được khái niệm một cách sai lầm.
Trong thực tế không có gì như tự ngã, một cái “ta” hay một linh hồn vĩnh cửu trường tồn, ngoài hiện tượng tâm–vật lý; đó chỉ là một giả thuyết do trí tưởng tượng tạo nên.
Lại nữa, những đặc tính tâm–vật lý của vị Ðại Phạm Thiên cũng như đặc tính tâm–vật lý của các chúng sanh khác, đều nằm trong định luật vô thường.
Khi tuổi thọ khô cạn thì vị Ðại Phạm Thiên cũng phải đối diện với cái chết và tịch diệt. Trong thực tế vị Ðại Phạm Thiên không thể viên mãn thành tựu tất cả những gì mình muốn; Ngài không thể bảo trì những đặc tính vật lý của thân theo ý muốn.
Do đó, thân của vị Ðại Phạm Thiên cũng là vô ngã, anattā.
🔹Luyến Ái Bám Vào Tự Ngã
–––––––––––––––
Thông thường người ta tin tưởng mạnh mẽ rằng mỗi cá nhân có một linh hồn, một thực thể sống, tồn tại suốt trọn cuộc đời. Ðó là quan điểm của những người theo giáo thuyết đoạn kiến, chủ trương rằng sau khi chết thì không còn gì, chết là hết.
Những người tin theo thuyết thường kiến thì trái lại, tin rằng linh hồn của mỗi cá nhân là bất diệt, sẽ không bị tiêu diệt sau khi chết mà sẽ sống trong những cơ thể mới.
Ðối với người theo thuyết thường kiến, thân nầy do hai thành phần cấu hợp: cơ thể thô kịch và cơ thể vi tế.
Vào lúc cuối cùng của kiếp sống, cơ thể thô kịch bị tiêu diệt nhưng cơ thể vi tế thì bỏ xác chết nầy nhập vào một thân mới, và như vậy không bao giờ tiêu diệt mà sống vĩnh viễn đời đời.
Quan điểm thường kiến nầy được trích dẫn nguyên văn, trọn vẹn và đầy đủ trong Phụ Chú Giải (tức chú giải của Bản Chú Giải) sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga).
Sư mô tả với đầy đủ chi tiết những niềm tin khác nhau về một tự ngã, và tự ngã ấy xuất nguyên như thế nào, >>> nhằm mục đích trình bày một cách rõ ràng hơn ý niệm vô ngã (anattā).
Trong những người tự xưng là Phật tử, có nhiều vị còn thật sự tin vào sự hiện hữu của một linh hồn thường còn, một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, hay thực thể sống, mặc dầu họ không nói nhiều về niềm tin nầy.
Họ tin rằng vào lúc lâm chung sự sống tách rời cái thân chết qua đường lỗ mũi hay miệng. Khi được thọ thai, sự sống ấy cũng nhập vào thai bào xuyên qua mũi, miệng, hay bụng của bà mẹ.
Và từ khi được sanh ra chí đến lúc chết, sự sống ấy bám sát dính liền theo cơ thể mới nầy. Tất cả những quan điểm trên đều liên quan đến niềm tin có một linh hồn nguyên vẹn, một thực thể sống.
Trong thực tế, cái chết chỉ là sự chấm dứt của tiến trình tâm–vật lý, sự không–phát–sanh trở lại của tiến trình tâm–vật lý sau khi “tử tâm” chấm dứt. Không có gì như một linh hồn hay một thực thể sống ra đi.
Một khi trở thành mới (tức chúng sanh mới) có nghĩa là sự phát sanh của một tâm thức mới ở một nơi mới cùng với nền tảng vật lý mà thức ấy dựa vào.
Vừa trước khi tử tâm chấm dứt vào lúc lâm chung, thức bám vào một trong ba: hoặc kamma, nghiệp, kamma nimitta, biểu tượng của nghiệp, hoặc gati nimitta, biểu tượng lâm chung, tức dấu hiệu của kiếp sống sắp đến [Lời người dịch: Xem sách Vi Diệu Pháp Toát Yếu, tác giả Ð.Ð. Nārada, chương V, trang 321–322].
Do những đối tượng ấy trợ duyên (bám sát vào khoảnh khắc cuối cùng của chặp tử tâm), một chặp thức mới phát sanh ở một nơi mới trong một kiếp sống mới. Ðây là thức–tái–sanh hay thức–nối–liền, vì đây là chặp tâm nối liền giữa hai kiếp sống – kiếp trước và kiếp sau.
Khi thức–nối–liền chấm dứt, liền sau đó là những chặp tâm của luồng hộ kiếp (bhavaṅga) tiếp tục trọn suốt kiếp sống, thích ứng với nghiệp lực đã tạo.
Khi có trần cảnh xuất hiện ở các căn môn như hình sắc hay âm thanh chẳng hạn, thì tùy trường hợp, chặp bhavaṅga được nhãn thức hay nhĩ thức thay thế.
Sự phát sanh của tâm thức mới trong một kiếp sống mới do nghiệp, kamma, của kiếp sống quá khứ trợ duyên.
Một cách chế định, hiện tượng nầy được gọi là chuyển sinh từ kiếp trước sang kiếp sau, nhưng trong thực tế không có một linh hồn hay thực thể sống di chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.
Trong ngôn ngữ thông thường, theo tập tục trong dân gian, người ta gọi là đầu thai, thay vì là tái sanh.
Có những người không thể nắm vững khái niệm vô ngã bởi vì họ không thông hiểu rành rẽ thuyết chủ trương có tự ngã, hay một cái “ta”, như được giải thích ở phần trên.
Họ nghĩ rằng nếu người kia thấy hình thể của một vật tức là bám vào tự ngã, là cảm nhận cái ta của mình. Thí dụ như để nhận ra cái cây là một cái cây, viên đá là một viên đá, cái nhà là một cái nhà, hay ngôi chùa là một ngôi chùa thì theo họ đó là bám vào tự ngã: “tôi thấy”.
Theo quan điểm của họ, chân lý vô ngã chỉ rõ ràng được nhận thức khi ta đã vượt qua khỏi khái niệm về hình thể và thay vào đó là sự cảm nhận sự vật qua chân lý cùng tột, chân đế.
Trong thực tế, chỉ nhận thức suông hình thể là hình thể thì sẽ không dẫn đến sự bám níu vào tự ngã.
Mà không còn nhận thức hình thể nữa cũng không có nghĩa là tuệ giác về lý vô ngã đã phát sanh, đã được thiết lập.
Nhận ra những vật vô tri vô giác như cây cối, đá sỏi, nhà cửa hay chùa chiền không phải là bám níu vào lý thuyết tự ngã, bám vào niềm tin có tự ngã, đó chỉ là sự hiểu biết theo khái niệm chế định, tục đế.
Người dính mắc trong niềm tin có sự hiện hữu của một tự ngã giả định rằng có một tự ngã, một linh hồn thường còn cố hữu dính liền theo chúng sanh hữu giác.
Khi ta giả định chính mình là một linh hồn đang sống và những người khác cũng là những linh hồn, những thực thể sống, thì đó là luyến ái bám níu vào niềm tin về tự ngã.
Những vị Phạm Thiên trong cảnh vô sắc giới (arūpa), vì không có cơ thể vật chất, không tự thấy mình theo chân lý chế định, nhưng các vị Phạm Thiên chưa được giác ngộ chưa thoát ra khỏi ảo kiến về tự ngã.
Chỉ khi nào đã vượt qua khỏi niềm tin về sự hiện hữu của một tự ngã, thân của chính ta và thân của người khác được nhận thức chỉ là những hiện tượng tâm–vật lý, tuệ giác về lý vô ngã mới khởi sanh, và điều chánh yếu là nên trau giồi và phát triển sự hiểu biết thật sự ấy.
(Còn tiếp)
Nguồn trích dẫn: Kinh Vô Ngã Tướng Giảng Giải – Mahasi Sayadaw
Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB