Hai mươi tám sắc pháp (Rūpakhandha)
Hai mươi tám sắc pháp (Rūpakhandha): Twenty Eight Matters
Sắc pháp gồm 2 phần là 4 sắc đại hiển và 24 sắc y sinh. – The matter of two parts: 4 Great Essentials and 24 Material qualities derived.
A> 4 sắc đại hiển (Mahābhūtarūpa) – 4 Great Essentials
Mahābhūtāni, Tứ Ðại. Theo nghĩa từng chữ, là những gì trở nên lớn. Bốn Ðại Chánh Yếu là những thành phần căn bản của sắc pháp, luôn luôn dính liền, không thể tách rời nhau. Mọi vật thể, từ vi tế nhất đến vật to lớn nhất, đều do bốn nguyên tố có đặc tính cá biệt ấy hợp thành. = Mahābhūtāni, those that have grown great. The four Great Essentials are the fundamental material elements which are inseparable. Every material substance, ranging from the minutes particle to the most massive object, consists of these four elements which possess specific characteristics.
1. Đất (Pathavī) – element of extension
Paṭhavi, đất, là nguyên tố của vật chất có đặc tính duỗi ra, bản thể của vật chất. Nếu không có nguyên tố nầy vật thể không thể chiếm không gian. Tính chất cứng hay mềm, thuần túy tương đối, là hai điều kiện của nguyên tố cá biệt nầy. Có thể nói rằng nguyên tố nầy nằm trong đất, nước, lửa và trong gió. Thí dụ như nước ở phần dưới nâng đỡ nước ở phần trên. Chính nguyên tố có đặc tính duỗi ra nầy, hợp với nguyên tố có đặc tính di động (vāyo) tạo nên áp lực đẩy lên, nâng đỡ phần nước ở trên. Nóng hay lạnh là tejo, nguyên tố lửa. Tính chất lỏng là āpo, nguyên tố nước. = paṭhavi means the element of extension, the substratum of matter. Without it objects cannot occupy space. The qualities of hardness and softness which are purely relative are two conditions of this particular element. It may be stated that this element is present in earth, water, fire and air. For instance, the water above is supported by water below. It is this element of extension in conjunction with the element of motion that produces the upward pressure. Heat or cold is the tejo element, while fluidity is the āpo element.
Paṭhavi–dhātu, Nguyên Tố Ðất. Phạn ngữ dhātu có nghĩa là cái gì mang những dấu hiệu cá biệt của mình. Nguyên tố là danh từ tương đương gần nhất của chữ dhātu. Paṭhavi–dhātu, theo nghĩa đen là nguyên tố đất. Ðược gọi như vậy vì cũng như đất, nguyên tố nầy có tác dụng nâng đỡ, làm nền tảng cho ba nguyên tố khác đồng sanh khởi. Paṭhavi (saṁskrt: prṭhvi), cũng được viết là pathavi, puthavi, puthuvi, puṭhuvi – phát nguyên từ căn “puth”, có nghĩa nới rộng ra, dãn ra, hay duỗi ra. Ðến đây, mặc dầu không mấy là viên mãn lắm, danh từ gần nhất với Paṭhavi–dhātu là “nguyên tố có đặc tính duỗi ra”. Nếu không có nguyên tố nầy, một vật không thể choán không gian. Tánh chất cứng và mềm là đặc tính của nguyên tố nầy. = Paṭhavi–dhātu – The Pali term dhātu means that which bears its own characteristic marks. Element is the closest equivalent for dhātu. Paṭhavi–dhātu, literally, means the earth–element. It is so called because like the earth it serves as a support or foundation for the other coexisting rúpa. Dhātu(Sanskrit: prthivi),
also spelt pathavi, puthavi, puthuvi, puthuvi – is derived from puth, to expand, to extend. So far, though not very satisfactory, the closest equivalent for Paṭhavi–dhātu is ‘the element of extension’. Without it objects cannot occupy space. Both hardness and softness are characteristics of this element.
2. Nước (Āpo) – element of cohesion
Āpo, nước, là nguyên tố có đặc tính làm dính liền. Không giống như paṭhavi, ta không thể cảm nhận nguyên tố nầy bằng giác quan. Ðây là thành phần làm dính liền những phần tử rời rạc của vật thể, và làm khởi sanh ý niệm hình thể. Khi một vật ở thể đặc chảy ra thì thành phần nước (āpo) trong chất lỏng ấy trở nên trội hơn. Khi một vật ở thể đặc bị phân tán thành bụi, trong mỗi hột bụi tí ti cũng có chứa đựng thành phần nước. Thành phần có đặc tính duỗi ra (đất) liên quan rất mật thiết với thành phần có đặc tính làm dính liền (nước) đến độ khi thành phần nầy chấm dứt thành phần kia cũng tiêu tan. = Āpo is the element of cohesion. Unlike pathavi it is intangible. It is this element that makes scattered particles of matter coheres, and gives rise to the idea of ‘body’. When solid bodies are melted, this element becomes more prominent in the resulting fluid. This element is found even in minute particles when solid bodies are reduced to powder. The elements of extension and cohesion are so closely interrelated that when cohesion ceases extension disappears.
Āpo–dhātu, Nguyên Tố Nước. Theo nghĩa từng chữ, là nguyên tố có đặc tính lỏng. Āpo phát nguyên từ căn “ap”, đến, hay từ “ā” căn “pāy” là lớn lên, trưởng thành. Ðây là “nguyên tố có đặc tính làm dính liền”. Theo Phật Giáo, chính nguyên tố nầy làm dính liền những phần tử khác nhau của sắc pháp và như thế, ngăn ngừa không để những phần tử kia rời rạc. Lỏng và rỉ chảy là đặc tính của nguyên tố nầy. Nên hiểu rằng lạnh không phải là đặc tính của nguyên tố nước. = Āpo–dhātu – lit., the fluid element. Āpo is derived from ap, to arrive, or from ā pāy, to grow, to increase. It is ‘the element of cohesion. According to Buddhism it is this element that makes different particles of matter coheres, and thus prevents them from being scattered about. Both fluidity and contraction are the properties of this element. It should be understood that cold is not a characteristic of this element.
3. Lửa (Tejo) – element of heat
Tejo, lửa, là nguyên tố nóng trong vật chất. Lạnh cũng là một hình thức của Tejo (lửa). Cả hai, nóng và lạnh, đều được hàm xúc trong thành phần “lửa” vì cả hai đều có năng lực làm cho vật chất trở nên chín mùi. Nói cách khác, Tejo, nguyên tố lửa, tạo sinh lực cho vật chất. Vật chất được bảo tồn hay bị hư hoại đều do nguyên tố nầy. Không giống như ba nguyên tố khác trong “tứ đại”, nguyên tố nầy có năng lực làm cho vật chất tự mình hồi sinh. = Tejo is the element of heat. Cold is also a form of Tejo. Both heat and cold are included in tejo because they possess the power of maturing bodies, Tejo, in other words, is the vitalizing energy. Preservation and decay are also due to this element. Unlike the other three essentials of matter, this element has the power to regenerate matter by itself.
Tejo–dhātu, Nguyên Tố Lửa. Theo nghĩa đen, là nguyên tố lửa, được giải thích là “nguyên tố có đặc tính nóng”. Danh từ tejo phát nguyên từ căn “tij”, làm cho sắc bén, chín mùi. Sự vật tươi tắn hay chín mùi đều do nguyên tố nầy. Nóng và lạnh đều là đặc tính của Tejo. Tejo cao độ là nóng, Tejo dịu dàng, ở độ thấp, là lạnh. Không nên hiểu rằng lạnh là đặc tính của āpo (nước), và nóng là đặc tính của Tejo (lửa), bởi vì trong trường hợp đó, cả hai nóng và lạnh cùng ở chung, vì āpo và Tejo cùng tồn tại chung. = Tejo–dhātu – lit., the fire–element, is explained as ‘the element of heat’. Tejo is derived from tij, to sharpen, to mature. Vivacity and maturity are due to the presence of this element. Both heat and cold are the properties of Tejo. Intense Tejo is heat, and mild Tejo is cold. It should not be understood that cold is the characteristic of apo and heat is that of Tejo; for, in that case, both heat and cold should be found together, as apo and Tejo coexist.
4. Gió (Vāyo) – element of motion
Vāyo, nguyên tố gió, có đặc tính di động, không thể tách rời ra khỏi Tejo, lửa. Chính thành phần gió (Vāyo) trong vật chất tạo sự vận chuyển và được xem là năng lực làm phát sanh nhiệt độ. “Sự di động và nhiệt độ trong phạm vi vật chất tương đương với tâm và nghiệp báo trong phạm vi tinh thần”. = Inseparably connected with heat is Vāyo, the element of motion. Movements are caused by this element. Motion is regarded as the force or the generator of heat. “Motion and heat in the material realm correspond respectively to consciousness and Kamma in the mental.”
Vāyo–dhātu, Nguyên Tố Gió. Theo nghĩa đen là nguyên tố gió, được giải thích là “nguyên tố có đặc tính di động”. Danh từ Vāyo phát nguyên từ căn “vāy”, di động, rung động. Có sự di động, rung động, lung lay và áp lực đều do nguyên tố nầy. = Vāyo–dhātu – lit., ‘the air–element’, is explained as the element of motion. Vāyo is derived from vāy, to move, to vibrate. Motion, vibration, oscillation, and pressure are caused by this element.
Tứ Ðại – bốn nguyên tố đất, nước, lửa, gió – luôn luôn dính liền nhau, không thể tách rời, nhưng trong một loại vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn những thành phần khác, thí dụ như trong đất thành phần paṭhavi trội hơn, trong nước āpo trội hơn, trong lửa tejo, và trong gió Vāyo trội hơn. = These four elements coexist and are inseparable, but one may preponderate over another as, for instance, paṭhavi in earth, āpo in water, tejo in fire, and Vāyo in air.
Bốn nguyên tố nầy cũng được gọi là Mahābhūtas, Tứ Ðại Chánh Yếu bởi vì luôn luôn có mặt trong tất cả những hình thể vật chất, từ tế bào cực nhỏ đến thiên thể khổng lồ. = They are also called Mahābhūtas or Great Essentials because they are invariably found in all material substances ranging from the infinitesimally small cell to the most massive object.
B> 24 sắc y sinh (Upādārūpa) – 24 Material qualities derived.
1. Nhãn (Cakkhu) – eye
2. Nhĩ (Sota) – ear
3. Tỷ (Ghāna) – nose
4. Thiệt (Jivhā) – tongue
5. Thân (Kāya) – body
Năm sắc này gọi là sắc thần kinh = Sensitive material qualities
Pasāda–rūpa, Phần Nhạy Của Sắc Pháp. Phần nhạy của năm giác quan – mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân. Phần nhạy nầy có khuynh hướng làm sáng các phần sắc khác trong giác quan. Thí dụ như cái mà thông thường ta gọi con mắt, sasambhāra cakkhu, là sự hổn hợp những hiện tượng khác nhau của sắc pháp, bao gồm bốn bhūtarūpas (tứ đại), bốn ūpādārūpas (chuyển hóa – tức màu, mùi, vị, và sinh lực) và jīvitindriya (mạng căn). Phần nhạy, nằm ở giữa con ngươi và làm cho ta thấy sự vật là cakkhu– Pasāda. Ðó là nền tảng của sự thấy (cakkhu–viññāṇa, nhãn thức) và trở thành phương tiện cho tiến trình ý thức của nhãn môn (cakkhu–dvāravīthi). Ý muốn thấy có khuynh hướng làm phát triển nhãn quan. Vậy, mắt gồm mười hiện tượng của sắc pháp trong đó Pasāda, đặc tính nhạy, là một. = Pasāda – rūpa – They are the sensitive parts of the five organs – eye, ear, nose, tongue, and body. They tend to clarify the coexisting material qualities. The perceptible physical eye, for instance, is the sasambhāra cakkhu or composite eye, which consists of the four bhuta– rūpa, four ūpādārūpas (colour, odour, taste, and sap), and jīvitindriya (vitality). The sensitive part which lies at the center of the retina and which enables one to see objects is, the cakkhu Pasāda. This is the basis of the eye–consciousness (cakkhu–viññāṇa) and becomes the instrument for the eye–door thought–process (cakkhu–dvāravīthi). The desire to see tends to develop the sense of sight. The eye, therefore, consists of ten material qualities of which Pasāda is one.
6. Cảnh sắc (Rūpa) – form
7. Cảnh thinh (Sadda) – sound
8. Cảnh khí (Gandha) – odour
9. Cảnh vị (Rasa) – taste
Gocararūpa, Trần Cảnh. Những hiện tượng của sắc pháp làm đối tượng cho giác quan, tức trần cảnh, tác động như hỗ trợ làm khởi sanh sự hay biết của giác quan tương ứng. = Gocararūpa – The sense–fields which serve as support for the sense–cognition to arise.
Cảnh xúc: đất, lửa, gió thuộc sắc đại hiển. Bảy sắc này được gọi là sắc cảnh giới hay sắc đối tượng (gocararūpa hay visayarūpa). – tangibility found in the three Essentials excluding the element of cohesion.
Phoṭṭhabba, Xúc Vì trong sắc pháp, nguyên tố có đặc tính làm dính liền (āpo, nước) quá tế nhị nên ngũ quan không thể cảm nhận. Chỉ có ba nguyên tố kia của Tứ Ðại – tức đất, lửa, và gió – được xem là xúc, phoṭṭhabba, tức giác quan có thể cảm nhận. Thí dụ như trong nước, đặc tính lạnh là tejo, lửa, mềm dịu là paṭhavi, đất, và có sức nặng đè xuống, hay áp lực, là vāyo, gió. Ta không thể sờ đụng āpo, nguyên tố làm dính liền. Xem Compendium, trang 155, ghi chú số 6. = Phoṭṭhabba – owing to its subtlety, the element of cohesion (āpo) cannot be felt by the sense of touch. Only the other three Fundamental Elements are regarded as tangible. In water, for instance, the cold felt is tejo, the softness is paṭhavi, and the pressure is vāyo. One cannot touch āpo as its property is cohesion. See Compendium, p. 155, n. 6.
10. Sắc nữ tính (Itthatta) – femininity
11. Sắc nam tính (Purisatta) – masculinity
Itthattaṁ purisattaṁ, Tánh Nam hay Tánh Nữ. Cũng được gọi itthindriyaṁ, purisindriyaṁ, là danh từ chung được thâu gọn dưới hình thức bhāvarūpa, trạng thái do đó nam tính và nữ tính được phân biệt. = Itthattaṁ purisattaṁ – also termed itthindriyaṁ, purisindriyaṁ – are collectively called in the abbreviated form bhāvarūpa, the state by means of which masculinity and femininity are distinguished.
Hai sắc này được gọi là sắc tính hay sắc trạng thái (bhāvarūpa). – Material qualities of sex.
12. Sắc ý vật (Hadayavatthu) (Sắc này cũng gọi là hadayarūpa – sắc trái tim; trong chánh tạng bộ Paṭṭhāna chỉ gọi sắc này là vatthu để nói đến sắc ý vật). – Material quality of base, viz: the heart–base.
Hadayavatthu, Ý Căn. Bộ Dhammasaṅgani không đề cập đến sắc pháp nầy. Trong sách Atthasālīni, danh từ Hadayavatthu đuợc giải thích là cittassa vatthu, căn cứ từ nơi đó tâm phát sanh. = Hadayavatthu – The seat of consciousness. Dhammasaṅgani omits this rūpa. In the Atthasālīni Hadayavatthu is explained as cittassa vatthu (basis of consciousness).
Rõ ràng Ðức Phật không nhất quyết chỉ nơi nào là căn môn của tâm như Ngài đã chỉ rõ khi đề cập đến các giác quan khác. Vào thời của Ngài, phần đông người ta tin rằng quả tim là ý căn và thuyết nầy hiển nhiên được kinh Upanishads hỗ trợ. Nếu muốn, Ðức Phật đã chấp nhận lý thuyết rất phổ thông thời bấy giờ ấy, nhưng Ngài không nói đến. Trong bộ Paṭṭhāna, bộ sách đề cập đến Duyên Hệ Tương Quan, Ngài nhắc đến căn cứ của thức (ý căn) bằng những danh từ gián tiếp như “yaṁ rūpaṁ nissāya” “tùy thuộc nơi sắc pháp ấy”, mà không quả quyết xác nhận rūpa (sắc) ấy là trái tim (hadaya) hay bộ não. Nhưng theo quan niệm của các nhà chú giải như Ngài Buddhaghosa và Anuruddha, thì ý căn nhất định là tim. Nên hiểu biết rằng Ðức Phật không hề chấp nhận hoặc bác bỏ lý thuyết rất phổ thông vào thời xa xưa ấy, cho rằng ý căn là tim. Xem Compendium trang 156 và trang 277. = It is clear that the Buddha did not definitely assign a specific seat for consciousness, as He has done with the other senses. It was the cardiac theory (the view that heart is the seat of consciousness) that prevailed in His time, and this was evidently supported by the Upanishads. The Buddha could have accepted this popular theory, but He did not commit Himself. In the Paṭṭhāna, the Book of Relations, the Buddha refers to the basis of consciousness in such indirect terms as”yaṁ rūpaṁ nissāya ””depending on that material thing”, without positively asserting whether that rupa was either the heart (hadaya) or the brain. But, according to the views of commentators like Venerable Buddhaghosa and Anuruddha, the seat of consciousness is definitely the heart. It should be understood that the Buddha has neither accepted nor rejected this ancient popular cardiac theory. See Compendium p. 156, n. 1, and p. 277.
13. Sắc mạng quyền (Jīvitindriya). (Sắc này còn được gọi là jīvitarūpa – sắc mạng). – Material quality of life, viz: vital principle.
Jīvitindriya, Mạng Căn. Có sự sống trong cả hai, danh pháp và sắc pháp. Ðời sống tâm linh, danh mạng căn, vốn là một trong 52 tâm sở (cetasikas), và đời sống vật lý, sắc mạng căn, vốn là một trong 28 sắc pháp, là những hiện tượng chánh yếu của cái gọi là chúng sanh. Danh mạng căn là một trong bảy tâm sở phổ thông, và sắc mạng căn kết hợp với hầu hết những nhóm sắc, ngoại trừ cơ thể người chết. Ðồng thời, khi thức tái sanh khởi phát, sắc mạng căn cũng khởi phát cùng một lúc với nhóm sắc pháp sơ khởi. Jīvita (sự sống) được xem là indriya (khả năng) vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ và tạo sức sống đến những phần tử khác đồng phát sanh. = Jivitindriya – There is vitality both in mind and in matter. Psychic life, which is one of the fifty–two mental states (cetasika), and physical life, which is one of the twenty–eight rupa, is essential characteristics of this so–called being. Psychic life is one of the seven universals and physical life is associated with almost every material group except in dead matter. Simultaneous with the arising of the rebirth–consciousness, physical life also springs up together with the initial material groups. Jīvita is qualified by indriya because it has a dominating influence over other co–adjuncts in vilifying them.
14. Sắc đoàn thực (Kabaliṅkārāhāra). (Sắc này còn được gọi là āhārarūpa – sắc vật thực). – Material quality of nutrition, viz: edible food.
Kabalīkāro Āhāro, Vật Thực. Ðược gọi như vậy vì vật thực thô sơ được đem vào bằng cách làm thành miếng ăn nhỏ. Nơi đây āhāra có nghĩa là sức dinh dưỡng (ojā) để nuôi cơ thể vật chất. Trong câu tuyên ngôn, “sabbe sattā āhāraṭṭhitikā”, tất cả chúng sanh đều sống nhờ vật thực, danh từ āhāra có nghĩa là một trợ duyên (paccaya), hay điều kiện. = Kabalīkāro Āhāro – so called because gross food is taken in by making into morsels. Here āhāra means nutritive essence (ojā) which sustains the physical body. In the statement – sabbe sattā āhāraṭṭhitikā, all beings live on food – āhāra means a condition (paccaya).
15. Sắc hư không giới (Ākāsadhātu). (Sắc này còn được gọi là paricchedarūpa – sắc giao giới). – Limiting material quality, viz: the element of space.
Ākāsadhātu – Nguyên Tố Không Gian. Theo các nhà chú giải Tích Lan (Sri Lanka) danh từ ākāsa xuất nguyên từ “ā” căn “kās “, cày. Bởi vì không thể cày như trên đất nên gọi không gian là ākāsa. Theo Saṁskrt, ākāsa phát nguyên từ “ā ” căn “kās”, có nghĩa thấy, nhận ra. Theo Ngài Ledi Sayadaw, chữ nầy xuất nguyên từ “ā “ căn “kās “, có nghĩa sáng chói, xuất hiện. Ākāsa, không gian, vốn tự nó là hư không. Và như vậy, là vĩnh cửu, trường tồn. Ākāsa là một nguyên tố, cũng gọi không giới, trong ý nghĩa là một nijjīva, không có thực thể, không phải như một nguyên tố “sống” như bốn Ðại Chánh Yếu. Khi được kể là một trong 28 sắc pháp, ākāsa không có nghĩa là lớp không gian rộng lớn bên ngoài, mà là không gian bên trong, phân giới hạn chia những nhóm sắc pháp với nhau. Vì lẽ ấy Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) xem là paricchedarūpa, phân giới hạn. Mặc dầu ākāsa, không gian, không phải là một đối tượng có thực thể, nhưng vì nó kết hợp với tất cả những sắc pháp phát sanh do bốn phương cách, Vi Diệu Pháp dạy rằng cùng một thế, không gian cũng được tạo nên do bốn nhân duyên như Nghiệp, tâm, hiện tượng thời tiết và vật thực. Ðồng thời với sự phát sanh và hoại diệt của những sắc pháp được tạo nên do nhân duyên, ākāsa rūpa (sắc pháp không gian) cũng phát sanh và hoại diệt cùng lúc. Xem Compendium, trang 226. = Ākāsadhātu – Ceylon Commentators derive ākāsa from ā kās, to plough. Since there is no ploughing as on earth, space is called ākāsa. According to Sanskrit, akasa is derived from ā kās, to view, to recognize. In Ledi Sayadaw’s opinion it is derived from ā kās, to shine, to appear. Ākāsa is space which in itself is nothingness. As such it is eternal. Ākāsa is a dhatu in the sense of a non–entity (nijjīva), not as an existing element like the four Essentials. By ākāsa, as one of the 28 rupas, is meant not so much the outside space as the intra–atomic space that ‘limits’ or separates material groups (rupakalapas). Hence in Abhidhamma it is regarded as a paricchedarūpa. Although ākāsa is not an objective reality, as it is invariably associated with all material units that arise in four ways, Abhidhamma teaches that it, too, is produced by the same four causes such as Kamma, mind, seasonal changes, and food. Simultaneous with the arising and perishing of the conditioned rūpa, ākāsa rūpa also arises and perishes. See Compendium p. 226.
16. Sắc thân biểu tri (Kāyaviññatti) – bodily intimation and
17. Sắc khẩu biểu tri (Vacīviññatti) – vocal intimation.
Hai sắc này gọi chung là sắc biểu tri (viññattirūpa). – Communicating material quality.
Viññatti – Những Hiện Tượng Truyền Cảm. Là phương tiện do đó người ta có thể truyền cảm tư tưởng với nhau, người nầy có thể hiểu biết ý định của người kia. Có hai cách truyền thông, là kāyaviññatti, biểu lộ bằng thân, tức truyền cảm bằng hành động, và Vacīviññatti, biểu lộ bằng lời nói. Kāyaviññatti, thân biểu, phát nguyên do tâm (cittaja) tạo nên nguyên tố gió (vāyodhātu, có đặc tính di động) đưa đến hành động bằng thân. Vacīviññatti, ngữ biểu, phát nguyên do tâm tạo nguyên tố đất (paṭhavi– dhātu). Thời gian tồn tại của một Viññatti chỉ là một chặp tư tưởng, hay sát–na tâm. = Viññatti is that by means of which one communicates one’s ideas to another and one understands another’s intentions. It is done both by action and speech – kāyaviññatti and Vacīviññatti. The former is caused by the ‘air–element’ (vāyodhātu) produced by mind (cittaja); the latter by the ‘earth–element (paṭhavi– dhātu) produced by the mind. The duration of Viññatti is only one thought–moment.
18. Sắc khinh (Lahutā) – material lightness
Lahutā – Ðặc Tính Nhẹ Của Sắc Pháp. Chỉ sức khỏe của cơ thể vật chất, và được ví như một thanh sắt nóng suốt ngày. = Rūpa denotes physical health, and is comparable to an iron rod heated throughout the day.
19. Sắc nhu (Mudutā) – softness
Mudutā – Mềm Dịu. Như một tấm da được đập và nhồi đầy đủ. = Mudutā is comparable to a well–beaten hide.
20. Sắc thích nghiệp (Kammaññatā) – adaptability
Kammaññatā –Nhu Thuận. Nghịch nghĩa với sự cứng rắn của thân, được ví như một khối vàng đã được nhồi nắn nhuyển. = Kammaññatā is opposed to the stiffness of the body, and is comparable to well–hammered gold.
(Ba sắc này gọi chung là sắc đặc biệt vikāra–rūpa). – Mutable material qualities and the two forms of intimation.
21. Sắc sinh, tính tập (Upacaya) – material productivity
Upacaya có nghĩa là sự chồng chất sơ khởi, hay sự phát sanh sơ khởi, ở đây gọi là sự khởi sanh. Trong chữ Upacaya, “upa” được dùng trong nghĩa “đầu tiên”. Sự khởi sanh của ba thập pháp – mười–thành–phần thân, mười–thành–phần–pháp, và mười–thành–phần–giới (kāyadasaka, bhāva–dasaka, vatthudasaka) ngay lúc được thọ thai vào lòng mẹ. Sự khởi sanh kế tiếp của ba thập pháp, từ giai đoạn tịnh của thức tái sanh xuyên qua kiếp sống, được xem như sự liên tục (santati). Cả hai, Upacaya (khởi sanh) và santati (liên tục) được xem là jāti, sự sanh. Hai danh từ nầy khác nhau ở điểm Upacaya là bước sơ khởi của tiến trình sắc pháp, còn santati là sự liên tục lặp đi lặp lại cũng tiến trình sắc pháp ấy. Như vậy con số các sắc pháp là 27, thay vì 28. = Upacaya means the first heaping–up or the first arising. Here upa is used in the sense of first. The arising of the first three decads – kāyadasaka, bhāva–dasaka, vatthudasaka – at the very moment of conception is regarded as Upacaya. The subsequent arising of the three decads from the static stage of rebirth–consciousness throughout lifetime is regarded as santati. Both Upacaya and santati are sometimes treated as jāti – birth. Then the number of rūpa amounts to 27 instead of 28.
22. Sắc tiến, thừa kế (Santati) – continuity
23. Sắc dị, lão mại (Jaratā) – decay
24. Sắc diệt, vô thường (Aniccatā) – impermanence
Một cách chính xác, chỉ có ba lakkhaṇarūpas (đặc tướng của sắc pháp) là sanh, hoại và diệt. Aniccatā đồng nghĩa với maraṇa (chết). Suốt khoảng cách giữa sanh và tử là sự trưởng thành, trụ, hay hoại diệt. = Strictly speaking, there are only three lakkhaṇarūpas, viz: birth, growth–decay, and death. Aniccatā is synonymous with maraṇa (death). The entire interval between birth and death constitutes development or decay.
Lakkhaṇarūpa – Ðặc Tướng Của Sắc Pháp. Ðược gọi như vậy vì sắc pháp có nhiều đặc tướng cá biệt trong những giai đoạn khác nhau như sanh (upāda), trụ (ṭhiti), và diệt (bhaṅga). = Lakkhaṇarūpa – So called because they assume distinguishable characteristics at different stages, such as arising (upāda), static (ṭhiti) and dissolution (bhaṅga).
Thời gian tồn tại của một sắc pháp thông thường được xem là 17 chặp tư tưởng [1]. Chặp đầu tiên là upacaya, chặp cuối cùng là aniccatā, 15 chặp ở khoảng giữa là jaratā. Aniccatā là sự phân tán của sắc pháp. = The life term of conditioned rūpa is normally 17 thought–moments or 51 minor thought–instants (according to Commentators, during the time occupied by a flash of lightning, billions of thought–moments arise.) The first thought–moment is like the upacaya, the last thought–moment is like the aniccatā, the intermediate 15 are like the jarata. Aniccatā is the dissolution of rūpa.
Ngoại trừ năm sắc pháp – tức hai viññatti, jāti, jarā, và Aniccatā – tất cả 23 sắc pháp còn lại tồn tại 17 chặp tư tưởng, hay sát–na tâm. = With the exception of the five rūpa– namely, two viññatti, jati, jara, and Aniccatā – all the remaining 23 rupas last for 17 thought–moments.
Bốn sắc này gọi chung là sắc tướng hay sắc trạng thái(Lakkhanarūpa) – Characteristics of material qualities.
Nơi đây đặc tính sanh khởi liên tục có nghĩa là hiện tượng sanh của sắc pháp. = Here by productivity continuity are meant the material quality of birth.
Quote in Compendium of Philosophy, Visuddhimagga and A Manual of Abhidhamma by Narada Maha Thera
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB