(2) Pháp dành cho những người có trí
(2) Pháp Dành Cho Những Người Có Trí
#PhápDuyênKhởi #MahasiSayadaw
#mahasivietbook #myanmarsayadaw
https://www.facebook.com/share/p/1B1XQxdUNU/
▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

Pháp rất vi diệu (nipuna), chỉ những người có trí mới giác ngộ được (panditavedaniyo).
Ở đây, bậc có trí là người có trí tuệ liên quan đến Vipassanà (minh sát) và Ðạo quả. Pháp không thể có được trong trí suy luận của các triết gia, giáo chủ, văn sĩ hay các khoa học gia đại tài có thể chia chẻ nguyên tử.
Nhưng pháp ấy có thể hiện ra trong tâm của bất cứ ai, bất luận nam nữ, tuổi tác hay học vấn, nếu người ấy có thực hành pháp quán về danh sắc khi chúng đang sanh khởi.
Pháp ấy càng rõ ràng hơn tromg tâm của những người đang trải qua các giai đoạn của tuệ quán và chứng đắc Thánh đạo cùng Thánh quả.
Khi dò xét căn tánh của tất cả chúng sanh, Ðức Phật thấy rằng hầu hết chúng sanh đều bị thâm nhiễm dục lạc.
Dĩ nhiên cũng có một vài ngoại lệ, như năm người bạn đồng tu với Thái tử Sĩ Ðạt Ta trong khu rừng khổ hạnh hay hai vị Bà la môn mà về sau trở thành hai đại đệ tử của Ðức Phật.
Còn đa số nhân loại đều xem dục lạc là nguồn hạnh phúc lớn nhất trong đời. Họ giống như những đứa trẻ suốt ngày vui thích với nhũng món đồ chơi của trẻ con mà không có ý nghĩa gì đối với những người lớn tuổi, nhưng những người lớn tuổi cũng tìm khoái lạc trong những trò chơi nhục dục của thế gian.
Dục lạc như vậy không còn hấp dẫn chư Phật và chư vị A–la–hán.
Những kẻ phàm phu và chư Thiên đều quí trọng nó,vì họ không thấy được những giá trị cao hơn như các tầng thiền, minh sát và Niết–bàn.
Người vui thích với dục lạc như vậy được ví như người nông dân sống ở miền nông thôn hẻo lánh. Dưới mắt những người thành thị thì những vùng như vậy được xem là những nơi lạc hậu, nghèo nàn, tối tăm và bịnh hoạn, nhưng dân chúng ở miền quê thì thấy hạnh phúc thoải mái và không hề có ý xa rời quê hương của mình.
Chư thiên và nhân loại vui thích trong dục lạc cũng giống như những người dân quê ấy, dù Giáo pháp của Ðức Phật như thế nào chăng nữa, họ cũng chỉ thích lạc thú của thế gian và suốt đời đắm chìm trong đó.
Thiếu vật dục thì họ cảm thấy không thoải mái, họ rất say mê và bận bịu với gia đình, tài sản, người ăn kẻ ở, đến nỗi họ không thể nghĩ gì cao siêu hơn mớ dục lạc đang nhan nhãn trước mắt họ.
Chính vì sự say mê dục lạc nên họ khó có thể hiểu được pháp Duyên khởi và Niết–bàn vi diệu thậm thâm.
––o0o––
Khó Lãnh Hội
–––––––––––––––
Giáo pháp của Ðức Phật sở dĩ ít hấp dẫn đại đa số vì pháp ấy đi ngược với lòng ham nuốn dục lạc của họ.
Dầu một bài pháp đơn giản họ cũng không thích chớ nói chi đến bài pháp về Niết–bàn, vì pháp ấy không có hương vị của dục lạc.
Xem ra họ không thích thú trong bài pháp của chúng tôi, bởi vì không hoa văn ướt át, không có những câu chuyện tình tứ lâm ly, những chuyện tiếu lâm giải trí và những điều hấp dẫn khác.
Những ai đã thực hành minh sát hay muốn học hỏi giáo pháp để đoạn diệt ô nhiễm, chỉ những người ấy mới chấp nhận giáo pháp của Ðức Phật.
Nhưng nếu xem thường những bài pháp có chứa những câu chuyện ngụ ngôn khôi hài là điều sai lầm, vì đó là những bài học đạo đức thâm thúy.
Về cơ bản, những bài kinh khác với những bài pháp phổ thông, nội dung của những bài kinh ấy có ý nghĩa rất thâm sâu như: kinh Vô ngã tướng, kinh Ðại niệm xứ…
Giáo lý Duyên khởi cũng thuộc về Tạng kinh. Giáo lý ấy phải được xem là Thắng pháp (abhidhamma) vì pháp ấy được thuyết theo cách của Tạng luận (abhidhammapitaka).
Vì bài pháp của chúng tôi là bài pháp không kém phần cao siêu, nên một số người lầm lẫn cho đó là Thắng pháp và không thể lãnh hội được, càng khó hơn là Ðạo và Niết–bàn mà pháp ấy nhấn mạnh đến.
Giáo lý duyên khởi sở dĩ khó hiểu vì bàn về mối tương quan giữa nhân và quả, trước khi Ðức Phật tuyên thuyết chánh pháp thì sự thật này khó được công nhận.
Các bộ chú giải cũng nêu ra tính chất cao siêu của giáo pháp. Theo các bộ chú giải này, có bốn pháp khó hiểu đó là:
Tứ diệu đế,
bản chất của chúng sanh,
bản chất của sự tái sanh và
pháp Tùy thuộc duyên khởi.
Khó hiểu được khổ đế, tập đế, diệt đế và khổ diệt đạo đế, khó đi sâu vào bốn chân lý này, giảng giải bốn chân lý ấy đến mọi người lại càng khó khăn hơn.
Thứ hai khó hiểu được rằng: chúng sanh là một tiến trình danh sắc đang diễn ra mà không có cái ta riêng biệt nào, tổng hợp của danh sắc phải đi theo định luật nghiệp báo, là định luật quyết định số phận sau này của mỗi chúng sanh tùy theo ác nghiệp hay thiện nghiệp mà chúng sanh ấy đã gieo tạo.
Thứ ba, khó thấy được rằng sự tái sanh xảy ra do kết quả của phiền não và nghiệp mà không có sự chuyển di của danh sắc từ kiếp sống trước.
Cuối cùng, hiểu được pháp duyên khởi cũng khó như thế. Pháp này bao gồm cả ba pháp trên. Phương tiện tiêu cực của nó liên quan đến hai Thánh đế đầu tiên cũng như bản chất của chúng sanh và sự tái sanh, trong khi đó phương tiện tích cực của pháp duyên khởi thì bao gồm hai Thánh–đế sau.
Do vậy, pháp duyên–khởi khó thủ đắc nhất, lại càng khó diễn giải, có lẽ dễ dàng hơn, nếu đem pháp này giảng dạy cho người đã đạt đến Ðạo quả và Niết–bàn, hay người đã học Tam tạng, nhưng với người chưa chứng đắc gì hoặc chưa có kiến thức về Kinh tạng thì sự truyền đạt chẳng được bao nhiêu.
Người biên soạn chú giải về giáo pháp là người có đủ trình độ giải thích giáo pháp, vì người ấy có thể đã chứng đắc các Ðạo bậc thấp hoặc đã thông suốt Tam tạng.
Sở dĩ nhà chú giải nêu ra tính chất khó hiểu của giáo pháp là để lớp hậu thế học hỏi, nghiên cứu giáo pháp một cách nghiêm túc.
Vị ấy ví tánh chất khó hiểu như thế giống như cảnh ngộ bi đát của người nhảy xuống biển mà không thể lặn xuống đáy.
Nhà chú giải cũng tự thú nhận rằng: Vị ấy biên soạn chú giải dựa vào Tam tạng và những bộ chú giải cổ xưa đã được truyền lại bằng miệng theo đúng truyền thống.
Pháp trình bày của chúng tôi cũng như thế ấy, vì pháp này khó giải thích nên hành giả cần phải tịnh tâm chú ý hết sức để tiếp thu.
Nếu hành giả theo dõi pháp một cách hời hợt thì sẽ không hiểu được gì cả và không có kiến thức sâu đậm về giáo pháp, phải tiếp tục lang thang trong rừng hoang dã của kiếp sống luân hồi.
Phần chính của pháp duyên khởi như sau:
Do vô minh, hành sanh.
Do duyên hành, thức tái sanh của kiếp sống mới sanh khởi.
Do duyên thức, danh sắc sanh.
Do duyên danh sắc, lục xứ sanh.
Do duyên xứ, xúc sanh.
Do duyên xúc, thọ sanh.
Do duyên thọ, ái sanh.
Do duyên ái, thủ sanh.
Do duyên thủ, nghiệp hữu sanh.
Do duyên hữu, tái sanh sanh sanh.
Và tái sanh dẫn đến lão tử, sầu, bi và ta thán. Toàn bộ khối đau khổ phát sanh lên như thế.
––o0o––
(Còn tiếp)
Nguồn trích dẫn: Pháp Duyên Khởi – Mahasi Sayadaw (TK Minh Huệ dịch Việt) – FB Sumangala Bhikkhu Viên Phúc #PDK
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB
