Đoạn trừ phiền não

Đoạn Trừ Phiền Não

#MahasiSayadaw #Mahasivietbook #MyanmarSayadaw

https://www.facebook.com/share/p/19oXsJs5EJ/

–––––––––––––––

Bản dịch Việt này của Deepseek ngày 28.9.2025 chưa được hiệu đính, còn có thể có nhiều sai sót, hãy thật cẩn trọng trong khi tham khảo. Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/16RN4JgpLQ/

–––––––––––––––

Việc có được định (samādhi)…, đắc được thiền (jhāna)…, đạt được sự thông hiểu (thông qua văn và tư)…, hay chứng được các pháp siêu việt … chỉ với mức độ đó thôi thì chưa thể xem là việc tu tập đã hoàn mãn.

Điều cốt yếu và quan trọng bậc nhất chính là phải đoạn trừ, làm cho vắng lặng các phiền não (kilesā) dẫn đọa vào khổ cảnh (apāya), chẳng hạn như tà kiến (diṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), sát sanh (pāṇātipāta), v.v… như đã được đề cập trước đây.

Nếu những phiền não (kilesā) ấy chưa được đoạn trừ và làm cho vắng lặng, thì cái gọi là “đắc pháp siêu việt” kia thật ra chẳng có ý nghĩa gì quan trọng, kính xin mọi người hãy ghi nhớ như vậy.

Đó chính là các đề mục hay câu kệ tóm tắt về bốn mươi bốn pháp bất thiện (akusala dhamma) cần phải được đoạn trừ thông qua Pháp Hành Giới (Sīleḷaka – dựa trên bài kinh cùng tên).

🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎

(Trích dẫn nguyên văn câu kệ tóm tắt bằng tiếng Myanmar/Pali)

🌐🌐🌐🌐

Đó chính là các đề mục tóm lược về bốn mươi bốn pháp bất thiện (akusala dhamma) cần được đoạn trừ bằng Pháp Hành Giới (Sīleḷaka). Câu kệ bắt đầu: “Vihiṃsā pāta, adinnan…” cho đến đây là mười pháp bất thiện đầu tiên.

(1) Vihiṃsā – Sự hành hạ, ngược đãi.

(2) Pāṇātipāta – Sự sát hại chúng sinh.

(3) Adinnādāna – Sự trộm cắp tài sản của người.

(4) Abrahmacariya – Sự tà hạnh (trong các dục).

(5) Musāvāda – Sự nói dối.

(6) Pisunavācā – Sự nói lời đâm thọc, ly gián.

(7) Pharusavācā – Sự nói lời thô ác, chửi mắng.

(8) Sappappalāpa – Sự nói lời phù phiếm, vô ích.

(9) Abhijjhā – Tham lam, mong cầu chiếm đoạt tài sản của người.

(10) Byāpāda – Sân hận, nuôi ý muốn hại người.

Đó là đề mục của mười pháp kể trên.

Tiếp theo, câu “Mười chi phần tà, trình bày theo thứ tự” có nghĩa là:

(11) Micchādiṭṭhi – Tà kiến.

(12) Micchāsaṅkappa – Tà tư duy.

(13) Micchāvācā – Tà ngữ.

(14) Micchākammanta – Tà nghiệp.

(15) Micchāājīva – Tà mạng.

(16) Micchāvāyāma – Tà tinh tấn.

(17) Micchāsati – Tà niệm.

(18) Micchāsamādhi – Tà định.

(19) Micchāñāṇa – Tà trí.

(20) Micchāvimutti – Tà giải thoát.

Ý nói là trình bày theo thứ tự mười pháp tà (micchā dhamma) này. Cộng mười pháp trước với mười pháp này lại thì đã có hai mươi pháp.

Tiếp theo đó:

(21) Thina–middha – Hôn trầm & thụy miên.

(22) Uddhacca – Phóng dật.

(23) Vicikicchā – Hoài nghi.

(24) Kodha – Sân hận.

(25) Upanāha – Oán hận.

(26) Makkha – Gièm pha, xem thường ân nhân.

(27) Paḷāsa – Ngã mạn, hiếu thắng.

(28) Issā – Ganh tị.

(29) Macchariya – Bỏn xẻn.

(30) Sāṭheyya – Giả dối, lừa đảo.

Tính đến đây đã có ba mươi pháp. Những pháp này đã được nêu rõ trong câu kệ.

Trong các bài kinh khác, sau Māyā mới giảng Sāṭheyya. Còn trong bài kinh này, Sāṭheyya được giảng trước, nhưng trong câu kệ thì vẫn sắp xếp theo vần điệu.

Do đó, sau Sāṭheyya là:

(31) Māyā – Sự lừa dối, che giấu tội lỗi.

(32) Thambha – Sự cứng đầu, ngạo mạn.

(33) Atimāna – Sự kiêu mạn quá mức.

(Trong các bài kinh khác, Atimāna được giảng trước. Ở đây, Thambha được giảng trước, nhưng câu kệ vì vần điệu nên ghi là “Atimā, thambha”.)

(34) Dubbacatā – Sự khó bảo, khó dạy.

(35) Pāpamittatā – Sự giao du với bạn ác.

(36) Pamāda – Sự dể duôi, phóng túng.

(37) Asaddhatā – Không có đức tin (saddhā).

(38) Ahirika – Vô tàm (không biết hổ thẹn).

(39) Anottappa – Vô quý (không biết ghê sợ tội lỗi).

(40) Appassutatā – Ít nghe, ít học (Chánh Pháp).

Tính đến đây đã có bốn mươi pháp. Những pháp này cũng đã rõ ràng theo câu kệ.

Tiếp theo đó:

(41) Kosajja – Biếng nhác.

(42) Muṭṭhassacca – Thất niệm.

(43) Duppaññatā – Trí tuệ minh sát (vipassanā) kém cỏi.

(44) Sandiṭṭhiparāmāsa – Chấp thủ (vào các tà kiến).

Bốn mươi bốn pháp đó chính là những phiền não bất thiện (akusala kilesā) cần được đoạn trừ, đã được chỉ rõ và thuyết giảng trong bài kinh Sīleḷaka này.

🌐🌐🌐🌐

◾ Giảng Giải Chi Tiết Về Pháp Hành Giới (Sīleḷaka)

Bốn mươi bốn pháp bất thiện (akusala dhamma) vừa nêu trên không thể bị đoạn trừ tận gốc rễ và làm cho vắng lặng chỉ nhờ vào thiền định (jhāna) hay các tầng thiền (samāpatti).

Chỉ khi nào tu tập viên mãn Pháp Hành – dựa trên nền tảng của Giới (Sīla), Định (Samādhi) và Tuệ (Paññā), là những pháp đối nghịch với bốn mươi bốn pháp bất thiện kia – thì mới có thể đoạn trừ tận gốc và làm lắng dịu các pháp bất thiện ấy.

Ở mức độ thấp nhất và cơ bản nhất, chỉ khi nào đạt được Nhập Lưu Thánh Đạo (Sotāpatti magga) mới có thể đoạn trừ tận gốc và làm cho chúng vắng lặng.

Khi đắc Nhập Lưu Thánh Đạo (Sotāpatti magga), những pháp bất thiện trong số bốn mươi bốn pháp này, chẳng hạn như Tà kiến (Micchādiṭṭhi), Chấp thủ (Sandiṭṭhiparāmāsa), Hoài nghi (Vicikicchā), Sát sanh (Pāṇātipāta) – tất cả những pháp bất thiện như vậy sẽ bị đoạn trừ tận gốc và vắng lặng.

Nói một cách tóm tắt, tất cả các pháp bất thiện có thể dẫn đến tái sanh vào bốn khổ cảnh (apāya) đều được đoạn trừ. Việc các phiền não bất thiện (akusala kilesā) này cần phải được đoạn trừ và làm cho vắng lặng một cách đúng mức là điều vô cùng trọng yếu.

Do đó, việc có được định (samādhi), đắc được thiền (jhāna), đạt được sự thông hiểu, hay chứng được đạo quả chỉ với mức độ đó thôi thì chưa thể xem là việc tu tập đã hoàn mãn.

Điều cốt yếu và quan trọng bậc nhất chính là phải đoạn trừ, làm cho vắng lặng các phiền não dẫn đọa vào khổ cảnh, như tà kiến, hoài nghi, sát sanh, v.v…

Nếu những phiền não đó không được đoạn trừ và làm cho vắng lặng, thì cái gọi là “đắc pháp siêu việt” kia thật ra chẳng có ý nghĩa gì quan trọng, kính xin mọi người hãy ghi nhớ như vậy.

🌎🌎🌎🌎

Trong các tôn giáo ngoài Phật giáo (sāsana), việc đắc thiền (jhāna) nếu không bị thối thất cho đến lúc lâm chung thì chỉ mang lại lợi ích là được tái sanh lên cõi Phạm Thiên (brahmā) và hưởng thọ phước báo trường thọ tại đó.

Đến khi mạng chung ở cõi Phạm Thiên, vị ấy vẫn phải tái sanh trở lại cõi người hoặc cõi trời. Đến lúc đó, nếu đắm chìm trong ngũ dục (kāmaguṇa) và tạo các ác nghiệp dẫn đến khổ cảnh (apāya), vị ấy vẫn có thể rơi vào bốn đường ác đạo.

Hơn nữa, ngay trong Phật giáo này, nếu một hành giả đắc thiền (jhāna) mà chỉ mãn nguyện với thành tựu thiền định đó thôi, thì vị ấy cũng không khác gì một ngoại đạo đắc thiền, không thể đạt đến con đường giải thoát khỏi bốn khổ cảnh.

Điểm khác biệt là ở chỗ: một hành giả đắc thiền trong Phật giáo, nếu biết dựa trên nền tảng thiền định đó để tiến hành thiền Minh Sát (vipassanā), thì vẫn có thể chứng đắc các Thánh Đạo và Thánh Quả (magga–phala) giải thoát khỏi khổ cảnh và luân hồi sanh tử.

Chính vì lẽ đó, Đức Thế Tôn (Buddha) đã thuyết giảng trong bài kinh này, khuyên dạy chúng ta không nên chỉ thỏa mãn với mức độ thiền định, mà cần phải tinh tấn thực hành Pháp Hành Giới (Sīleḷaka) – pháp hành có khả năng đoạn trừ tận gốc các pháp bất thiện (akusala dhamma).

🌐🌐🌐

Trong bài kinh, trước hết, Ngài bắt đầu bằng việc giảng về pháp không hành hạ (avihiṃsā). Việc hành hạ chúng sinh khác là một hành động cực kỳ bất công.

Chúng ta hãy suy ngẫm: nếu có người vô cớ đến ngược đãi, bắt nạt chính mình, liệu ta có thể chấp nhận và cam lòng chịu đựng không? Chắc chắn là không. Nếu có đủ khả năng, ta ắt sẽ tìm cách phản kháng lại kẻ hành hạ đó. Tâm lý này đúng cho mọi người, mọi chúng sinh.

Vậy thì, việc mình gây ra sự hành hạ mà chính bản thân mình không thể chấp nhận được cho người khác, há chẳng phải là điều bất nhẫn sao? Chắc chắn câu trả lời là không nên.

Chính nhờ sự quán xét với lòng từ bi (compassion) và bi mẫn như vậy, chúng ta từ bỏ và tránh xa mọi hành vi hành hạ. Sự không hành hạ (avihiṃsā) ấy là điều mà tất cả chúng sinh đều mong muốn và có thể chấp nhận.

Tại Ấn Độ, pháp hành không hành hạ (avihiṃsā) này được đặc biệt tôn trọng. Các tín đồ Kỳ Na giáo (Jain) trong năm giới luật chính của họ đã đặt pháp avihiṃsā lên hàng đầu. Điều đó cho thấy họ rất coi trọng nguyên tắc này.

Tuy nhiên, cách họ định nghĩa về chúng sinh không nên bị hành hạ thì lại quá rộng, khiến cho họ xem cả thực vật và các yếu tố tự nhiên như đất, nước cũng là những sinh thể có linh hồn và không nên bị tổn hại.

Để tránh những tranh cãi không cần thiết có thể dẫn đến ác nghiệp, Đức Phật (Buddha) đã chế định một số giới luật (sikkhāpada) cho chư Tăng, chẳng hạn như không được phá hoại cây cối, không được đào xới đất đai.

Mục đích chính của những giới điều này là nhằm tránh xung đột và ngăn ngừa sự phát sinh ác nghiệp, hơn là xác nhận cây cỏ, đất đá là chúng sinh. Về bản chất, cây cối và đất đai không phải là chúng sinh (satta) theo quan điểm Phật giáo.

Đối với người tại gia, việc chặt cây, xới đất không tạo ra ác nghiệp sát sanh. Thực thể thực sự không nên bị hành hạ chính là những sinh vật có tâm thức (cittajaīva), có khả năng nhận thức và cảm thụ đau khổ, hạnh phúc.

Đối với những chúng sinh có tâm thức, có khả năng phân biệt tốt xấu đó, thì dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng không nên hành hạ. Đó chính là ý nghĩa cốt lõi được hàm chứa trong lời dạy của Đức Phật.

Có thể có thắc mắc: Tại sao pháp không hành hạ (avihiṃsā) này lại được xem là cao quý hơn các tầng thiền (jhāna) và định (samāpatti)?

Lý do về sự cao quý của nó được giải thích như sau:

Phiền não (kilesā) muốn hành hạ (vihiṃsā) tồn tại ở ba mức độ.

① Sự hành hạ được thực hiện qua thân (kāya) hoặc khẩu (vācī) được gọi là “Phiền não vi phạm” (vitikkama kilesā) – tức là phiền não thô đã phát ra thành hành động.

Loại vitikkama kilesā này được đoạn trừ nhờ sự trì giữ Giới (Sīla). Một vị nghiêm trì giới luật (sīla) sẽ không hành hạ chúng sinh khác. Dù cho ý muốn hành hạ có phát sinh trong tâm, nhưng nhờ sức mạnh của Giới, vị ấy sẽ kềm chế không cho nó biểu hiện thành hành động hay lời nói.

② Kế đến, sự khởi lên trong tâm các ý nghĩ, tư duy muốn hành hạ được gọi là “Phiền não trỗi dậy” (pariyuṭṭhāna kilesā) – tức là phiền não đang hiện hành trong dòng tâm thức.

Loại pariyuṭṭhāna kilesā này được đoạn trừ nhờ các tầng thiền Định (samādhi), từ cận định (upacāra) cho đến an chỉ định (appanā).

Khi tâm an trú vào một đề mục thiền định, chẳng hạn như đề mục đất (paṭhavī kasiṇa) với sự quán tưởng liên tục “đất, đất”, hoặc khi hành thiền quán hơi thở (ānāpānasati), hoặc bất kỳ pháp thiền chỉ (samatha) nào khác, thì những ý nghĩ muốn hành hạ sẽ không có cơ hội khởi lên; chúng bị tạm thời chế ngự và lắng dịu. Khi đạt đến an chỉ định (appanā jhāna), sự vắng lặng của chúng càng rõ rệt hơn.

Ngay cả khi xuất thiền, nếu không gặp phải những duyên cớ đặc biệt, chúng vẫn tiếp tục ở trạng thái tạm thời bị đè nén.

Tuy nhiên, khi gặp phải những điều kiện (nhân duyên) mạnh mẽ, tâm sân muốn hành hạ (vihiṃsā) vẫn có thể tái phát.

Sự chế ngự phiền não bằng thiền định được ví như việc dùng gàu múc nước tạm thời làm các cọng rêu trên mặt hồ tản ra xa, tạo thành một khoảng trống. Nhưng theo thời gian, rêu sẽ dần dần trở lại phủ kín mặt nước. Phiền não bị đè nén bằng thiền định (vikkhambhana pahāna) cũng mang tính chất tạm thời như vậy.

③ Cuối cùng, khuynh hướng ngủ ngầm (anusaya) của phiền não muốn hành hạ được gọi là “Phiền não tiềm miên” (anusaya kilesā). Đây là hạt giống phiền não vẫn còn nằm sâu trong tâm thức, sẵn sàng trỗi dậy khi hội đủ nhân duyên, ngay cả khi nó không hiện hành trong hiện tại.

Loại anusaya kilesā này chỉ có thể được đoạn trừ tận gốc bởi Tuệ Minh Sát (vipassanā ñāṇa) và Đạo Tuệ (magga ñāṇa).

Một hành giả thường xuyên quán chiếu Minh Sát (satipaṭṭhāna) về các hiện tượng danh–sắc (nāma–rūpa) khởi sinh nơi sáu căn, khi gặp phải một đối tượng đáng giận, sẽ không cố chấp vào khía cạnh “đáng giận” của nó.

Vị ấy thấy rõ bản chất vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā) của đối tượng ấy, thấy nó sinh và diệt từng sát–na. Nhờ vậy, ngay tại thời điểm đó, sân hận không khởi lên (đây gọi là sự đoạn trừ tạm thời – tadaṅga pahāna).

Khi Tuệ Minh Sát (vipassanā ñāṇa) được viên mãn, nó sẽ dẫn đến sự phát sinh của Đạo Tuệ (magga ñāṇa).

Khi đắc Nhập Lưu Thánh Đạo (Sotāpatti magga), những loại sân hận thô tháo nhất, đủ để dẫn đến khổ cảnh, sẽ bị đoạn trừ.

Khi đắc Nhất Lai Thánh Đạo (Sakadāgāmi magga), tâm sân trở nên yếu hơn.

Và khi đắc Bất Lai Thánh Đạo (Anāgāmi magga), mọi hình thái của sân hận và ý muốn hành hạ (vihiṃsā) sẽ bị đoạn trừ vĩnh viễn.

Pháp Hành Giới (Sīleḷaka) – sự thực hành từ bỏ hành hạ (vihiṃsā) và nuôi dưỡng không hành hạ (avihiṃsā) – chính là con đường dẫn đến sự đoạn tận ấy.

Vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng rằng Pháp Hành Giới (Sīleḷaka) này cao quý hơn các tầng thiền (jhāna) và định (samāpatti).

🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎🌎

(Ghi chú: Bài giảng này được trích từ “Chương thứ sáu – Nhóm câu hỏi về Sīleḷaka” trong bản ghi Pháp thoại về Kinh Sīleḷaka do Đức Đại Trưởng Lão Mahāsī Sayadaw, bậc Ân Sư Đại Trí Tuệ (Aggamahāpaṇḍita), thuyết giảng. Tập I. Ấn bản lần thứ tư, Phật lịch 2540, năm 1996 Công nguyên.)

–––––––––––––––

Bản dịch Việt của GPT 5:

–––––––––––––––

Được định (samādhi), được thiền chứng (jhāna), có tri kiến do nghe thấy, đạt những pháp thù thắng – chỉ nói đến chừng ấy thì chưa phải đã xong việc.

Ở nấc thấp nhất, các phiền não thuộc ác đạo như tà kiến và nghi (diṭṭhi–vicikicchā), sát sinh (pāṇātipāta), v.v. cần phải được tịnh trừ. Nếu các phiền não ấy chưa được tịnh trừ, thì điều gọi là “đắc pháp thù thắng” rốt lại cũng chẳng đưa đến kết quả nào cả – hãy ghi nhớ như vậy.

Đây là câu đầu đề tóm nêu bốn mươi bốn pháp bất thiện cần đoạn trừ bằng hạnh “tạc khắc” (sallekha – hạnh gọt giũa phiền não).

Bài kệ tóm đề:

“Vihiṃsā, pāṇa, adinna; abrahmacariyā, musā, pisu; pharu, sammā, abhijjha, byā; mười pháp micchā được nêu tuần tự; thīna, uddhacca, vicikicchā; kodha, upanāha, makkha, paḷāsa; issā, macchariya, sāṭheyya, māyā; atimāna, thambha, dubbacatā; pāpamittatā, pamāda; asaddhatā, ahirika, anottappa; appasutatā; kosajja, muṭṭhassacca; duppaññatā, sandiṭṭhiparāmāsa.” (Câu kệ nêu đầy đủ 44 pháp bất thiện cần trừ bằng hạnh sallekha.)

Mười bất thiện nghiệp (akusala–kamma) đầu tiên:

1) Vihiṃsā – bạo hại, hành hạ; 2) Pāṇātipāta – sát sinh; 3) Adinnādāna – lấy của không cho (trộm cắp); 4) Abrahmacariya – tà hạnh (dâm hạnh); 5) Musāvāda – vọng ngữ (nói dối, lừa dối); 6) Pisunāvācā – lưỡi đôi chiều (đâm thọc, ly gián); 7) Pharusāvācā – ác khẩu (lời thô ác); 😎 Samphappalāpa – ỷ ngữ (nói phù phiếm, vô ích); 9) Abhijjhā – tham muốn vật của người; 10) Byāpāda – sân hại (ác ý muốn người khác hư vong).

Tiếp theo là mười tà chi (micchā) nêu theo thứ tự:

1) Micchādiṭṭhi – tà kiến; 2) Micchāsaṅkappa – tà tư duy; 3) Micchāvācā – tà ngữ; 4) Micchākammanta – tà nghiệp (thân hành tà); 5) Micchāājīva – tà mạng; 6) Micchāvāyāma – tà tinh tấn; 7) Micchāsati – tà niệm; 😎 Micchāsamādhi – tà định; 9) Micchāñāṇa – tà trí; 10) Micchāvimutti – tà giải thoát. Cộng với mười điều trước là hai mươi.

Kế đến:

21) Thīna–middha – hôn trầm, thụy miên; 22) Uddhacca – trạo cử (phóng tán); 23) Vicikicchā – nghi hoặc; 24) Kodha – sân; 25) Upanāha – ôm hiềm, kết oán; 26) Makkha – bội ân (xóa ơn người); 27) Paḷāsa – ganh đua với bậc đáng kính; 28) Issā – tật đố; 29) Macchariya – xan tham; 30) Sāṭheyya – xảo trá, giả dối.

Trong một số kinh khác, Māyā được nêu trước Sāṭheyya; còn ở kinh này Sāṭheyya được nêu trước, nên bài kệ sắp theo trật tự ấy.

Tiếp theo:

31) Māyā – che giấu, quanh co tội mình; 32) Thambha – cứng cỏi, không kính thuận; 33) Atimāna – quá mạn (tự cao quá mức). Ở vài bản kinh khác Atimāna được nêu trước Thambha, nhưng trong câu kệ đầu đề vẫn sắp “Atimāna, Thambha” theo thông lệ.

34) Dubbacatā/Dovacassatā – khó bảo, khó khuyên dạy; 35) Pāpamittatā – kết giao bạn ác; 36) Pamāda – phóng dật, buông lung đối với việc thiện; 37) Asaddhatā – không có saddhā (chánh tín); 38) Ahirika – vô tàm (không biết hổ thẹn tội lỗi); 39) Anottappa – vô quý (không biết sợ hãi tội lỗi); 40) Appasutatā – ít nghe học (thiếu văn tuệ).

Sau đó:

41) Kosajja – giải đãi, biếng lười; 42) Muṭṭhassacca – thất niệm (mất chánh niệm); 43) Duppaññatā – thiểu tuệ (thiếu tuệ minh sát); 44) Sandiṭṭhiparāmāsa – chấp thủ tri kiến hiện thấy (chấp thủ cực đoan vào quan điểm riêng). Bốn mươi bốn pháp này trong Kinh Sallekha (သလ္လေခသုတ်) được nêu ra như những bất thiện cần đoạn trừ.

Giải rộng về hạnh tạc khắc (sallekha):

–––––––––––––––

Bốn mươi bốn bất thiện pháp vừa kể không thể bị nhổ tận gốc chỉ bằng các định chứng (jhāna–samāpatti).

Muốn nhổ tận gốc, cần tu đầy đủ giới, định, tuệ (sīla, samādhi, paññā), tu tập những pháp đối trị tương ưng;

tối thiểu phải chứng Đạo nhập lưu (Sotāpatti–magga) mới có thể đoạn trừ tận gốc.

Khi chứng Sotāpatti–magga, trong số bốn mươi bốn pháp ấy, các pháp như tà kiến (micchādiṭṭhi), chấp thủ tri kiến (sandiṭṭhiparāmāsa), nghi (vicikicchā), sát sinh (pāṇātipāta), v.v. được đoạn tận gốc.

Tóm lại, các bất thiện có khả năng dẫn đọa bốn ác đạo đều được dứt sạch; do vậy, việc tịnh trừ đúng mức các bất thiện, kiết sử, phiền não là điều hết sức trọng yếu.

Được định, được thiền, có tri kiến do nghe thấy, được pháp thù thắng – chỉ thế vẫn chưa xong; ngay ở tầng thấp nhất, cần tịnh trừ những phiền não thuộc ác đạo như diṭṭhi–vicikicchā, pāṇātipāta, v.v. Nếu các phiền não ấy chưa sạch, thì “đắc pháp thù thắng” rốt lại cũng chẳng thành tựu gì đáng kể – nên ghi nhớ.

Về người đắc thiền (jhāna) trong Giáo pháp: nếu qua đời khi thiền chưa hoại, quả báo là sinh lên cõi Phạm thiên (Brahmā) và trú lâu ở đó. Khi phước ở cõi Phạm thiên tận, sẽ trở lại cõi người hoặc trời; nếu khi ấy buông lung trong các dục cảnh mà tạo ác nghiệp thuộc ác đạo, vẫn có thể rơi vào bốn ác đạo.

Ngay trong thời Giáo pháp này, người đắc jhāna mà chỉ mãn ý với jhāna ấy thì cũng như “người trong Giáo pháp nhưng chỉ dừng ở jhāna”, không thể đạt pháp giải thoát khỏi bốn ác đạo.

Tuy nhiên, nếu lấy jhāna làm nền mà hành minh sát (vipassanā), thì có thể chứng các Đạo–Quả (magga–phala) thù thắng, thoát khổ luân hồi và ác đạo. Do vậy, Đức Thế Tôn dạy chớ mãn ý với riêng jhāna, mà hãy hành hạnh tạc khắc (sallekha) để đoạn tận gốc các bất thiện pháp.

Về pháp “không bạo hại” (avihiṃsā): bậc Đạo Sư nêu trước hết pháp này. Bạo hại kẻ khác là điều bất công. Hãy xét: người khác vô cớ bức hại ta, ta có chấp nhận không? Không thể chấp nhận; nếu có thể, ta sẽ gạt bỏ hành vi ấy. Con người và các loài hữu tình đều như vậy. Vậy điều ta không thể chấp nhận ở nơi mình, lẽ nào lại làm cho kẻ khác?

Do vậy, hãy dùng tâm bi mẫn mà suy xét, tránh không làm điều bạo hại; pháp “không bạo hại” này mọi loài đều có thể chấp nhận.

Tại Ấn Độ, avihiṃsā được tôn trọng đặc biệt. Người theo đạo Jaina đặt avihiṃsā lên hàng đầu trong năm giới luật của họ – biểu thị trọng thị cao độ. Tuy nhiên, đối tượng “không bạo hại” theo họ thì vượt quá giới hạn: không chỉ hữu tình có tâm thức, mà còn xem nước, cỏ cây xanh tươi, đất đai cũng là “chúng sinh”.

Để tránh tranh luận với họ, Đức Phật đã chế cho Tăng chúng các học xứ như không phá hoại cỏ cây, không đào xới đất… nhằm tránh tranh chấp dẫn đến bất thiện. Nhưng đúng nghĩa, cỏ cây, đất đai không phải là “chúng sinh”.

Với người không xuất gia, việc chặt cây hay đào đất tự nó không thành bất thiện nghiệp. Thực sự, đối tượng “không bạo hại” phải là các hữu tình có tâm thức, có tri giác thiện ác, có cảm thọ.

Đối với những hữu tình biết cảm thọ thiện ác, dù nhỏ hay lớn, đều không nên bạo hại. Mục đích trong Giáo pháp Đức Phật chỉ đến mức ấy.

Vì sao “không bạo hại” lại cao hơn định thiền (jhāna)? Bởi phiền não “bạo hại” có ba tầng:

1) Vitikkama–kilesa – phiền não hiện hành qua thân và khẩu (thân–khẩu ác hạnh). Loại này được ngăn dứt bởi giới (sīla). Người giữ giới trang nghiêm không bạo hại kẻ khác; dẫu sân khởi, nhờ kính giới mà không tạo thân–khẩu ác nghiệp.

2) Pariyutthāna–kilesa – phiền não khởi hiện hành trong tâm (ý muốn bạo hại, mưu hại). Loại này được đè nén bằng cận hành và an chỉ định (uppacāra, appanā–samādhi) của thiền chỉ (samatha–kammaṭṭhāna).

Khi tu đề mục đất (paṭhavī–kasiṇa) với niệm “paṭhavī, paṭhavī” (đất, đất), hoặc các kasiṇa khác, hay niệm hơi thở (ānāpāna), thì các ý tưởng muốn bạo hại không khởi, hoặc lắng dịu.

Khi an trú jhāna, các ý tưởng ấy không khởi; khi xuất định, nếu không gặp duyên mạnh thì vẫn yên, nhưng gặp duyên thích hợp chúng có thể khởi lại. Sự xa lìa do đè nén này gọi là vikkhambhana–pahāna (đoạn trừ bằng áp chế).

Ví dụ trong chú giải (Aṭṭhakathā): bèo phủ mặt hồ; người múc nước đẩy bèo sang bên, vùng nước vừa múc trống ra; bèo không khép lại ngay, nhưng dần dần lại phủ kín.

Định jhāna đẩy lùi phiền não như vậy: tuy có thể xa lìa lâu dài, nhưng khi gặp duyên, phiền não lại khởi như cũ.

Ngay cả bậc Thượng tọa đắc thần thông đôi lúc còn khởi sợ hãi trước hình tượng con voi, hay khởi tham trước sắc nữ – ví dụ thế.

3) Anusaya–kilesa – tùy miên, hạt giống tiềm ẩn của phiền não. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần mà không ghi nhận, chưa chứng A–na–hàm đạo (Anāgāmī–magga), nếu đủ duyên, sân hại vẫn có thể khởi.

Có khi lúc thấy–nghe… không sân, nhưng do không ghi nhận nên khi hồi tưởng lại, sân và ý muốn bạo hại khởi – đó là tùy miên. Loại này phải do tuệ minh sát (vipassanā) và đạo trí (magga–ñāṇa) đoạn trừ.

Người liên tục ghi nhận danh–sắc tại sáu môn, dù gặp cảnh trái ý cũng không xem là “đáng giận”, chỉ thấy vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anattā) sinh diệt từng sát–na; vì thế khi thấy cũng không sân, nhớ lại cũng không sân – đó là tadaṅga–pahāna (đoạn trừ theo chi phần) do vipassanā.

Tuy nhiên, ở những cảnh không ghi nhận được, sân vẫn có thể khởi; chưa phải tận diệt gốc.

Dẫu vậy, mỗi lần hành vipassanā là đang hành nền tảng hạnh sallekha để hướng đến đoạn tận.

Khi vipassanā–ñāṇa chín muồi phát sanh Sotāpatti–magga, những hành vi bạo hại thô tháo có thể dẫn đọa ác đạo được dứt; đến Sakadāgāmī – magga, sân giảm thiểu; đến Anāgāmī–magga, ý muốn bạo hại và sân hận đoạn tận hoàn toàn.

Do đó, pháp “không bạo hại” (avihiṃsā) trong sallekha là hạnh hành trì đưa đến A–na–hàm đạo; vì vậy Đức Phật dạy hạnh “không bạo hại” cao hơn các định thiền.

Thông tin nguồn giảng:

Saṭṭhasaṅgīti Pucchaka, Aggamahāpaṇḍita, Đại Trưởng lão Mahāsi Sayadaw thuyết giảng Kinh Sallekha (hạnh tạc khắc), Quyển I, Phật lịch 2540, Myanmar lịch 1358, Dương lịch 1996, lần thứ tư, tại Usoethuya.

— HẾT BẢN DỊCH —

Ghi chú thuật ngữ Pali (Myanmar script) kèm nghĩa Việt:

– (sallekha – hạnh tạc khắc, gọt giũa phiền não), (akusala–kamma – bất thiện nghiệp), (sīla – giới), (samādhi – định), (paññā – tuệ), (jhāna–samāpatti – định chứng thiền), (vipassanā – minh sát), (magga–phala – Đạo–Quả), (Sotāpatti/Sakadāgāmī/Anāgāmī – ba Đạo đầu), (vitikkama/pariyutthāna/anusaya–kilesa – ba tầng phiền não), (vikkhambhana/tadaṅga–pahāna – hai cách đoạn trừ), (uppacāra/appanā – cận hành/an chỉ), (paṭhavī–kasiṇa – đề mục đất), (ānāpāna – niệm hơi thở), (Brahmā – Phạm thiên).

–––––––––––––––

Bản gốc tiếng Myanmar xin xem tại đây:

https://www.facebook.com/share/p/16RN4JgpLQ/

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 28/9/2025