(10) Thức (tái sinh) duyên danh sắc

(10) Thức (Tái Sinh) Duyên Danh Sắc

https://www.facebook.com/share/p/1Bcr9FxJWU/

▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

Do có thức tái sinh nên có những sở hữu tâm đồng sinh với nó như thọ, tưởng, niệm v.v… cùng với ba nhóm sắc hay 30 sắc. Sau khi thức tái sinh diệt, các sở hữu tâm sinh lên theo từng hoạt động của thức và các sắc do tâm, nhiệt độ và vật thực làm duyên cũng sinh lên.

Như vậy mối liên hệ khăng khít giữa tâm và sở hữu tâm rõ ràng và minh xác.

Khi tâm hoạt động thì chúng ta cảm thọ, ghi nhớ, suy nghĩ, lúc ấy có tham, sân, tín v.v… sinh lên.

Các sắc pháp do tâm làm duyên sinh cũng rõ ràng như thế. Chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, hay làm bất cứ việc gì chúng ta muốn.

Theo chú giải, sự thật hiển nhiên này chứng minh cho chúng ta thấy rằng vào lúc thọ thai, thức tái sinh khiến cho ba nhóm sắc hay 30 sắc có mặt.

Thực ra, sự sinh khởi của thức tái sinh và sắc vào lúc thọ thai xảy trong chớp nhoáng đến nỗi ngay cả thiên nhãn cũng không thể thấy được. Thiên nhãn chỉ thấy trước khi chết và sau khi tái sinh. trong khi đó, Phật nhãn thấy được trực tiếp tử tâm và tái sinh tâm.

Nhưng nhờ hiểu được những vấn đề liên quan đến nguyên nhân của sắc, chúng ta có thể khẳng định có sự sinh khởi của các sắc từ thức tái sinh vào lúc thọ thai.

Có một số sắc không phải do tâm sinh, mà do nghiệp, thời tiết vật thực làm duyên sinh.

Nhưng nếu không có tâm thì chúng không có đời sống. Cái xác chết không thể có sự sống, dầu nó có sắc khí tiết (sắc do nhiệt độ mà sinh lên).

Nhờ có tâm mà các sắc do nghiệp, thời tiết và vật thực làm nhân sinh mới có thể tồn tại và tạo thành một dòng sống liên tục.

Một khi cái chết xảy ra đột ngột, cắt đứt dòng tâm thức, thì các sở hữu và các sắc cũng ngưng hoạt động. Do đó mới có câu: Thức sinh Danh sắc.

Do có Hành (thiện nghiệp hay ác nghiệp) nên có một dòng tâm thức trôi chảy liên tục, không gián đoạn trong một kiếp sống mới.

Ði kèm với mỗi tâm thức là Danh–sắc, cũng sinh khởi không ngừng nghỉ. Thời gian kéo dài của danh sắc tùy thuộc vào tâm. Nếu tâm kéo dài trong một tiếng đồng hồ thì danh sắc cũng kéo dài trong một tiếng đồng hồ. Nếu dòng tâm trôi chảy trong một trăm năm thì chúng ta nói rằng đời sống của danh sắc là một trăm năm.

Nói tóm lại, chúng ta nên hiểu rằng: Ðời sống chỉ là một dòng trôi chảy liên tục, diễn ra trong mối liên hệ nhân quả giữa danh sắc và thức.

Những điều mà chúng tôi đã nói có thể kết luận như sau: Vô minh sinh hành. Do vô minh về bốn chân lý, người ta cố gắng tạo tác (hành) để được hạnh phúc. Họ nghĩ rằng hạnh phúc sẽ đến nếu họ được cái mà họ muốn. Nhưng các đối tượng của dục đều mang tánh chất vô thường và vì vậy, chúng dẫn đến khổ.

Vì không biết chân lý về khổ, người ta suy nghĩ nói và làm để mong cầu lợi ích và hạnh phúc cho mình trong cuộc sống hiện tại và mai sau. Những hành động tạo nghiệp này dẫn đến thức tái sinh trong những cõi thấp hoặc cõi cao.

Bắt đầu bằng thức tái sinh này, tiếp theo là dòng tâm thức trôi chảy liên tục cho đến chết và bản chất của đời sống tâm linh này do nghiệp quyết định.

Thân xác này do nghiệp tạo ra và cũng do tâm, thời tiết (tức là hơi nóng, utu) và chất dinh dưỡng.

Hiện tượng sắc pháp do tâm tạo thật rõ ràng đối với tất cả hành động về thân và khẩu của chúng ta, như sự di chuyển, nói v.v… đều có nguồn gốc ở tâm.

Vị hành giả phải thực hành chánh niệm về nền tảng của những sắc do tâm tạo này, điều quan trọng là tự mình biết chúng một cách thực nghiệm (không phải qua lý thuyết).

Cho nên lời dạy của Ðức Phật trong bài kinh Ðại niệm xứ là: “vị Tỳ khưu biết rằng mình đi trong khi đó vị ấy đi, và biết đứng trong khi đứng”.

Theo chú giải, nếu qua thực nghiệm, chúng ta biết sự tùy thuộc của sắc do tâm sinh nơi tâm thời chúng ta cũng có thể suy ra sự đóng góp của thức vào các sắc do nghiệp, tâm, thời tiết và vật thực làm duyên sinh. Do đó, kinh Thập nhị duyên khởi mới có câu: do thức, danh sắc sinh.

Hành giả không thể thực nghiệm biết được tâm tái sinh hay bất cứ tâm nào khác trong quá khứ, liên quan đến vấn đề ấy.

Tất cả những gì hành giả có thể biết được là tánh chất thực của thức khi nó đang hoạt động trong hiện tại, và chỉ có thể biết được nó khi nào vị ấy thường xuyên chánh niệm.

Nếu hành giả nhiếp tâm vào thức hiện tại, thì vị ấy mới có thể biết được danh sắc một cách rõ ràng.

Nếu vị ấy niệm: “thấy à, thấy à” và biết được nhãn thức, vị ấy cũng biết được danh sắc đi kèm với nhãn thức. Nhãn thức mà chúng tôi muốn nói ở đây không chỉ là cakkhu–vinnàna, mà toàn bộ quá trình thấy hay lộ nhãn (cakkhudvàra–vithi).

Hành giả niệm nó như một tổng thể, chứ không phải một phần tách rời. Hơn nữa, lộ tâm xuất hiện trước hành giả như một đơn vị (độc nhất) của thức.

Pháp nội quán này phù hợp với một đoạn trong bộ Patisambhidàmagga như sau: “Cái tâm tập trung vào sắc, tâm ấy sinh khởi và diệt mất. Hành giả quán sự diệt của cái tâm mà đã soi vào sự diệt của sắc”.

Nói một cách khác, khi sắc hiện bày, tâm nhìn ngắm nó; Nhưng từ khi tâm đạt đến tuệ diệt (bhangànàna), nó cũng thấy tánh vô thường trong sắc và diệt mất.

Tâm minh sát đang diệt tự nó trở thành đề mục của pháp quán.

Tâm minh sát này không phải là tâm đơn giản. Nó có ít nhất là một chuyển hướng tâm và bảy tốc lực tâm, nhưng không thể thấy từng tâm một trong tám tâm này; Toàn bộ quá trình tâm sẽ là đề mục của pháp quán.

Ở đây, nhãn thức có nghĩa là cả lộ nhãn môn và nó bao gồm thiện hoặc ác nghiệp, và các tốc lực tâm. Bởi vậy, sự chú ý vào nó dẫn đến đến sự giác tri thọ, tuởng, xúc, tác ý (manasikàra), tư (cetanà), v.v…

Nhưng về sự suy nghĩ thì Tư rõ ràng hơn. Như vậy, ban đêm khi chúng ta suy nghĩ điều mà chúng ta sẽ làm vào ngày hôm sau, cetanà ấy sẽ hoạt động mạnh. Nó thúc dục và kích động chúng ta, và chức năng của nó không thể sai lệch.

Hành giả thường xuyên quán xét danh sắc của mình sẽ biết rõ cetanà đang hoạt động bất cứ khi nào vị ấy nói hoặc cử động.

Ví dụ: Trong khi đang thực hành chánh niệm, bạn cảm thấy ngứa ngáy và muốn diệt cơn ngứa ấy. Bạn chú niệm vào ước muốn ấy và bạn cảm thấy tựa như mình bị thúc dục làm tan cơn ngứa. Chính cetanàthúc dục bạn làm như vậy và vì thế nó có mặt trong từng hành vi, lời nói và suy nghĩ của bạn.

Tóm lại, nếu bạn biết các danh uẩn phát sinh từ đó cũng như các sắc của toàn thân, là những sắc hình thành nền tảng của nó. Ðiều này đúng với Phật ngôn: “Do thức, danh sắc sinh khởi”.

Phần trên cũng ứng dụng vào các thức còn lại, như nhĩ thức v.v… Sự nhận biết thức có nghĩa là sự nhận biết tất cả danh sắc có liên hệ chặt chẽ với thức.

Sự nhận biết xúc dựa trên các cảm thọ khổ và lạc khi những cảm thọ này có mặt; Nó dựa vào sự xúc chạm khi sự chuyển động và sự cứng rắn hiện bày.

Lúc bạn ghi nhận ước muốn co tay, bạn biết được sở hữu Tư (cetanà) đứng sau nó.

Khi bạn quán thức đang làm công việc suy nghĩ, bạn biết danh sắc đi kèm với nó. Khi bạn tự thấy mình đưa một cái gì đó vào trí nhớ, bạn biết được Tưởng.

Khi bạn chú ý đến ý định muốn làm gì hay nói gì, bạn sẽ nhận biết trạng thái Tư.

Khi bạn muốn ghi nhận rằng mình đang muốn cái gì đó, bạn biết đó là Tham của bạn.

Khi bạn ghi nhận trạng thái nổi giận của mình, bạn biết rằng đó là Sân.

Bạn biết trạng thái Si mê khi bạn ghi nhận cái nhìn của mình về một chúng sinh như là một nhân vật thường tồn và hạnh phúc.

Hơn nữa, ý định của bạn muốn nói hay làm điều gì thường được đi kèm bởi hành vi về thân hay sự diễn đạt bằng lời và như vậy, qua pháp quán, bạn biết được tâm thức như là nguyên nhân của các sắc trong thân.

Thức và danh sắc đều phụ thuộc lẫn nhau. Cũng như thức làm cho danh sắc sinh khởi, thì danh sắc cũng như thế, dẫn đến thức.

Danh sắc đóng góp vào thức qua sự thành lập đồng sinh hay câu sinh duyên (sahapaccaya), y duyên (nissayapaccaya), v.v…

Chỉ qua sự đóng góp của tất cả các nhóm sở hữu hay thân làm nền tảng vật chất mà thức có mặt.

Bài kinh Mahàpadàna (Ðại bổn kinh) cho chúng ta biết cách quán sát của Bồ tát về pháp duyên khởi, ngay trước khi Ngài thành đạo.

Ngài tìm ra danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ và hữu, là những mắc xích trong chuỗi nhân duyên dẫn đến già chết.

Rồi Ngài nhận thấy danh sắc do thức làm duyên sinh và ngược lại.

Bài kinh mô tả đoạn này về mối tương quan giữa thức và danh sắc đối với Bồ tát Vipassì, nhưng chúng ta cũng nên hiểu rằng điều ấy cũng xảy ra đối với tất cả chư vị Bồ tát trước khi các Ngài chứng đạo vô thượng.

Dẫu thức và danh sắc phụ thuộc lẫn nhau, tuy nhiên thức vẫn là yếu tố quyết định, và vì thế nó được mô tả là nguyên nhân của danh sắc.

Thực ra khi thức sinh lên do hành, thì những sở hữu đồng sinh với nó cũng như các sắc sinh lên do hành đều có mặt cùng một lúc.

Như vậy, thức và danh sắc sinh chung với nhau trong thời điểm tái sinh. Hơn nữa, thức và danh sắc bao gồm lục căn, xúc và thọ.

Nhưng vì thức là nguyên nhân của danh sắc và danh sắc là nhân của lục căn v.v… nên Ðức Phật mới dạy rằng: “Vinnàna paccayà nàmarùpa, v.v…” để phân biệt giữa nhân và quả.

Tương tự một câu kệ trong pháp cú kinh mô tả cái tâm (mano hay vinnàna) dẫn đầu các sở hữu tâm như sau: “Manopubbangamà dhammà, nếu một người nói hay làm với tâm ác, đau khổ sẽ theo người ấy như là một kết quả, giống như bánh xe lăn theo con bò kéo.”

Trên thực tế, tâm và các sở hữu tâm sinh chung với nhau, nhưng vì vai trò ưu trội của tâm, nên nó được xem là đứng đầu các sở hữu.

Nếu tâm con người có tánh chất ác thì người ấy sẽ hành động ác, nói lời ác và mang những ý nghĩ ác. Ba loại nghiệp này là những hành sinh ra từ Vô minh. Chúng trở thành tiềm năng để cho quả nghiệp ác.

Mỗi hành vi, lời nói hay ý nghĩ đều có đi kèm bảy tốc lực tâm xẹt lên bảy lần. Nếu những tốc lực tâm đầu có tánh chất khả ái thì nghiệp sẽ cho quả trong kiếp sống hiện tại; Nếu không, nó sẽ trờ thành vô hiệu trong kiếp sống hiện tại.

Nếu một trong bảy tốc lực tâm mà khả ái, thì nó làm khởi sinh những tướng nghiệp hay những cảnh của kiếp sau vào lúc lâm chung, và cho quả nghiệp trong kiếp sau. Nếu không, nó sẽ vô hiệu.

Ðối với năm tốc lực tâm kia, chúng cho quả nghiệp từ kiếp thứ ba cho đến kiếp cuối cùng (là kiếp đã được chứng đắc Niết–bàn), với điều kiện là có cơ hội thuận lợi. Nó sẽ trở nên vô hiệu chỉ sau khi chứng Niết–bàn.

Trước khi chứng đắc Niết–bàn, tiềm năng của nó vẫn còn nguyên vẹn trải qua vô số kiếp, sẵn sàng cho quả bất cứ khi nào có cơ hội thích hợp.

Nó cho quả khổ trên thân lẫn tâm, ở các cõi khổ. Nếu do oai lực của thiện nghiệp mà người ta được tái sinh trong cõi người, người ấy sẽ bị ác nghiệp bám sát và cũng bị khổ bất chấp địa vị của người ấy là như thế nào trong cuộc sống.

(Còn tiếp)

Nguồn trích dẫn: Pháp Duyên Khởi – Mahasi Sayadaw (TK Minh Huệ dịch Việt) – FB: Sumangala Bhikkhu Viên Phúc #PDK

▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

FB LINKS: PHÁP DUYÊN KHỞI

▬▬▬▬▬ஜ۩۞۩ஜ▬▬▬▬▬

(1) Pháp Duyên Khởi: Vượt ngoài lý luận và suy đoán

https://www.facebook.com/share/p/1C7irDPxPS/

(2) Pháp Dành Cho Những Người Có Trí

https://www.facebook.com/share/p/1B1XQxdUNU/

(3) Thế Nào Là Vô Minh? Thế Nào Là Chánh Kiến?

https://www.facebook.com/share/p/14K61cqbJHv/

(4) Vô Minh Duyên Hành

https://www.facebook.com/share/p/1AzcMBZgSj/

(5) Vô Minh Và Ảo Tưởng

https://www.facebook.com/share/p/173mD3mYN6/

(6) Hành Duyên Thức

https://www.facebook.com/share/p/19e8peBcZh/

(7) Những Cảnh Tượng Lúc Lâm Chung & Thức Tái Sinh

https://www.facebook.com/share/p/1F9frmntqV/

(😎 Thức Duyên Danh Sắc

https://www.facebook.com/share/p/19dUmoGgyx/

(9) Các Tâm Lộ (Vìthicitta)

https://www.facebook.com/share/p/1USC46umGk/

… còn tiếp…

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, WebFB
  • Tôi nguyện, WebFB
  • Tại sao Myanmar, WebFB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, WebFB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, WebFB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, WebFB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), WebFB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), WebFB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), WebFB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FBYoutube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FBYoutube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, WebFBYoutube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, WebFB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, WebFB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, WebFB

Bài viết trên Facebook, 6/10/2025